Saturday, August 21, 2021

TRẬN ĐÁNH QALA-i-JANGI

I. LỜI GIỚI THIỆU

Trận đánh Qala-i-Jangi còn được gọi là trận Mazar-i-Sharif, nhóm tù binh (Taliban) nổi loạn trong nhà tù trong thời gian từ ngày 25 tháng Mưới Một đến 1 tháng Mười Hai năm 2001 nơi hướng bắc Afghanistan, sau khi quân đội Hoa Kỳ lãnh đạo quân đồng minh (Âu châu) xâm chiếm Afghanistan lật đổ chế độ đang cầm quyền Taliban “Vương Quốc Hồi Giáo Afghanistan”, nhóm hồi giáo qúa khích chứa chấp, các hoạt động khủng bố Al Qaeda.

Hàng trăm đàn ông, nhiều người không phải quốc tịch Afghanistan, đầu hàng bên ngoài thành phố Mazar-i-Sharif, thành phố lớn thứ tư ở Afghanistan với dân số hơn 500.000 người. Nhóm Taliban bị giam trong nhà tù Qala-i-Jangi (thành xưa biến thành nhà tù giam giữ quân Taliban) do lực lượng Liên Minh Phương Bắc (Northern Alliance - Mặt Trận Hồi Giáo Thống Nhất Cứu Độ Afghanistan) trông nom, cai quản. Nhóm Taliban bị giam trong nhà tù này để cho nhân viên CIA, Hoa Kỳ thẩm vấn, tra khỏi (về Al Qaeda và Osama bin Laden). Các tù binh Taliban không bị khám xét chặt chẽ, dùng bạo lực nổi loạn, trở thành một trong những trận đánh đẫm máu nhất trong suốt cuộc chiến tranh ở Afghanistan. Quân Liên Minh Phương Bắc canh gác nhà tù được Lực Lượng Đặc Biệt Anh quốc, Hoa Kỳ, phi cơ yểm trợ, mất sáu ngày mới dẹp tan cuộc nổi loạn của đám tù binh Taliban.

(có tài liệu trước đây nói rằng Taliban bị Liên Minh Phương Bắc dùng tiền do CIA cung cấp lừa bịp các tay súng Taliban ra hàng, tước khí giới, rồi tống vào nhà tù Qala-i-Jangi cho nhân viên CIA tra khảo.)

Kết qủa 300 tù binh Taliban bị giết, cùng với nhiều quân thuộc Liên Minh Phương Bắc. Quân đồng minh chỉ bị một tổn thất duy nhất, nhân viên CIA Johnny Michael Spann, người Hoa Kỳ đầu tiên tử trận trên chiến trường, trong cuộc xâm lăng của Hoa Kỳ năm 2001. Trong số những tù binh sống sót có hai người mang quốc tịch Hoa Kỳ tình nghi chiến đấu trong hàng ngũ Taliban, Yaser Esam Hamdi và John Walker Lindh (mang biệt danh American Taliban).

  II. NGUYÊN NHÂN XẨY RA CÂU CHUYỆN

Vào cuối tháng Mười Một 2001, tình hình quân sự nơi hướng bắc Afghanistan trở nên quan trọng, nhiều cấp chỉ huy Taliban đồng ý đầu hàng lực lượng Liên Minh Phương Bắc dưới quyền chỉ huy của “Tướng” Abdul Rashid Dostum, lãnh tụ nhóm sắc dân thiểu số Uzbek, chiếm đa số trong Phong Trào Quốc Gia Hồi giáo của Afghanistan, bên ngoài thành phố bị bao vây Kunduz. Hàng trăm “chiến sĩ khách mời” (Al Ansar – đa số đến từ các quốc gia nói tiếng Ả Rập trong vùng Trung Đông) cũng đầu hàng, buông súng, kể cả một nhóm lớn vừa đến bằng đoàn xe convoy ngày hôm trước, tại một vị trí cách khoảng 100 cây số (62 dặm) để trình diện (đầu hàng), gần thành phố Mazar-i-Sharif. Dostum cho chuyện Taliban đầu hàng là một “chiến thắng lớn” cho quân đồng minh, một sự thành công không đổ máu sẽ đem lại sự hòa giải dân tộc cho người Afghanistan trong tương lai. Hàng ngàn tù binh (Taliban) được đưa đến nhà tù Sheberghan (dư luận nói nhiều tù binh chết vì bị đối xử dã man, tàn bạo.)

Trong khi đó, quân đội Hoa Kỳ muốn thẩm vấn các tù binh ngoại quốc trong hàng ngũ Taliban về sự liên hệ với quân khủng bố Al Qaeda, mạng lưới Phong Trào Võ Trang Hồi Giáo. Người Afghanistan đưa nhóm chiến sĩ “quốc tế” Taliban vào nhà tù Qala-i-Jangi (Thành Trì Chiến Tranh) ở Dari, một thành trì xây từ thế kỷ thứ 19 (200 năm) gần Mazar-i-Sharif mà lãnh tụ Liên Minh Phương Bắc, Dostum đã dùng làm bộ chỉ huy, kho đạn. Ngày 24 tháng Mười Một, 386 chiến sĩ “quốc tế”  được vận chuyển trên xe chở hàng  đến “thành trì” lúc đó đã biến thành nhà tù Qala-i-Jangi. Các tù binh Taliban “quốc tế” chưa được khám xét kỹ càng, nhiêu người vẫn còn cất giấu vũ khí lúc đầu hàng. Trong ngày họ đầu hàng hai tù binh tự sát bằng lựu đạn (hai vụ khác nhau), làm chết một cấp chỉ huy của Dostum và mấy người khác. Với sự tổn thất, Phong Trào Võ Trang Quốc Gia Hồi Giáo (Northern Alliance), vẫn không tăng cường thêm quân bảo vệ nhà tù.

 III. NỔI LOẠN

Ngày 25 tháng Mười Một, hai nhân viên CIA Johnny Michael Spann từ phòng hoạt động bán quân sự đặc biệt (trong cơ quan CIA) và David Tyson, một nhân viên CIA khác, biết nói tiếng Uzbek, một chuyên gia về khu vực, đến Qala-i-Jangi để thẩm vấn các tù binh trong sân (trống trải) trong nhà tù. Hai viên chức CIA chọn lựa tù binh (có nét đặc biệt) để thẩm vấn, đặc biệt một tù binh tên là Sulayman al Faris, một công dân Hoa Kỳ tên chính thức là John Walker Lindh.

Sau khi thẩm vấn được khoảng hai tiếng đồng hồ, một số tù binh, trong đó vài người dấu lựu đạn, bất ngờ đứng dậy tấn công đám (Liên Minh Phương Bắc) đang canh gác trại tù (số tù binh đông gấp bốn lần số quân canh gác, bảo vệ trại tù). Họ tấn công theo kiểu tự sát, nhào vào các họng súng của đám quân canh gác, giết chết vài quân của Liên Minh Phương Bắc củng nhân viên CIA Spann, làm chủ tình hình khu vực phiá nam trại tù, có kho vũ khí đạn dược, lấy được nhiều súng nhỏ, lựu đạn, súng phóng hỏa tiễn B-40, cùng nhiều đạn dược.

Nhân viên CIA Spann “biến mất” trong lúc hỗn loạn, người còn lại Tyson chạy thoát lên khu phía bắc nhà tù, kẹt bên trong cùng với một toán nhân viên hệ thống truyền hình ARD của Đức. Nhanh nhẹn, Tyson mượn điện thoại vệ tinh của họ, liên lạc với tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Uzbekistan yêu cầu tăng cường. Đặc biệt Tyson không yêu cầu không trợ vì còn kẹt quân Liên Minh Phương Bắc. Bộ Tư Lệnh Trung Ương (CENTCOM) gửi gấp một đơn vị xung kích đóng trong trường dậy tiếng Thổ Nhĩ Kỳ (Turkish) ở thành phố Mazar-e-Sharif. Căn cứ Hoa Kỳ có đơn vị Mũ Xanh Lực Lượng Đặc Biệt  và một toán 8 quân nhân tiểu đội Z. Đơn vị đi tiếp cứu thuộc tiểu đoàn 3, liên đoàn 5 LLĐB/HK, hai sĩ quan liên lạc Không Quân, một toán Người Nhái Anh Quốc, và một nhân viên y tá của CIA.

Người Afghanistan (Liên Minh Phương Bắc) cũng tăng viện cùng với một chiến xa T-55. Chiến xa này chạy vào bên trong trại tù bắn phá những vị trí có quân (tù binh) Taliban. Tiếp theo, có nhiều toán truyền hình quốc tế khác vào đến nơi quay video phóng sự. Lúc 2 giờ chiều, một đơn vị hỗn hợp gồm 9 quân nhân Mũ Xanh (LLĐB/HK), 6 quân nhân LLĐB / SEAL Anh Quốc (SBS). Từ 4 giờ chiều cho đến khi đêm xuống, họ được chín phi tuần phản lực Hoa Kỳ lên oanh kích các vị trí chiến đấu, giao thông hào quân Taliban, đến lúc đó họ vẫn kiên trì chiến đấu. Sau đó một toán bốn quân nhân LLĐB vào được bên trong cứu thoát nhân viên CIA Tyson và viên phóng viên người Đức, Arnim Stauth.

 Sáng hôm sau, quân võ trang Liên Minh Phương Bắc lập ban chỉ huy tiền phương gần cổng ra vào nơi phướng bắc để điều chỉnh chiến xa, súng cối tác xạ. Đến giữa buổi sáng họ được quân LLĐB Hoa Kỳ / Anh Quốc lên tăng cường. Quân đồng minh chia làm ba toán: toán không yểm cận phòng CAS-1 nằm dưới một đài cao nơi hướng đông bắc để điều chỉ phi cơ oanh kích vào phiá nam khu vực sân trống. Toán không yểm cận phòng thứ hai CAS-2 gần cổng chính nhà tù, và toán phản ứng cấp thời gồm 4 quân nhân Mũ Xanh, một y sĩ Hải Quân Hoa Kỳ, và 8 quân nhân thuộc sư đoàn 10 Sơn Cước (10th Mountain Div.) 

Lúc 11 giờ trưa, một qủa bom điều khiển GBU-31 JDAM nặng 2000 cân Anh (957kg) thả xuống từ một phi cơ B-52, do sĩ quan điều không trong toán CAS-1 hướng dẫn. Viên phi công nhầm tọa độ thả xuống không đúng mục tiêu, rơi vào ban chỉ huy tiền phương Liên Minh Phương Bắc giết chết 30 người và làm bị thương 50 người khác, lật một chiến xa của quân bạn và cả toán điều không cận phòng CAS-1 đều bị thương bao gồm 5 Hoa Kỳ và 4 người Anh. Đêm hôm đó, hai phi cơ “Hỏa Long” AC-130H Spectre, danh hiệu GRIM 11 và GRIM 14) bay bao vùng yểm trợ cho quân bạn. Hỏa lực kinh khủng từ hai chiếc “Hỏa Long” trúng kho đạn, gây tiếng nổ lớn, đám cháy kéo dài suốt đêm. Một tù binh Taliban trốn thoát khỏi nhà tù, bị dân chúng điạ phương bắt được đánh hội đồng cho đến chết.

Đến sáng ngày 27 tháng Mười Một, đám tù binh chống cự yếu dần. Quân đồng minh có chiến xa, xe bọc sắt yểm trợ các đợt tấn công và bẻ gẫy các đợt phản công của quân Taliban. Đến cuối ngày, quân đồng minh đã lấy lại gần hết trại tù binh. Người Hoa Kỳ thâu hồi được xác của nhân viên CIA Spann. Quân Liên Minh Phương Bắc “tịch thâu” (hành động trộm cắp) trên xác chết Taliban, cậy răng vàng, lấy đôi giầy còn tốt, và giết ít nhất hai người bị thương chưa chết.

Lúc đó, quân đồng minh nghĩ rằng tất cả tù binh đã chết. Nhưng, thực ra hơn 100 tay súng Taliban vẫn còn sống, lui về tử thủ dưới tầng hầm tòa nhà trung tâm. Họ tiếp tục trú ẩn, chỉ bị khám phá khi giết toán quân đi thâu dọn tử thi Taliban. Trận đánh tiếp tục. Ngày 28, “Tướng” Dostum đến thị sát chiến trường, tìm cách thuyết phục quân Taliban ra hàng, không thành công. Qua hôm sau, Dostum ra lệnh đổ nước lạnh xuống tầng hầm… và người Taliban cuối cùng ra đầu hàng ngày 1 tháng Mười Hai. Trong số 386 tù binh đưa đến “Thành Trì” (nhà tù), chỉ có 86 người sống sót, trong đó có “American Taliban” John Walker Lindh.

IV. SAU CUỘC NỔI LOẠN

Trong số Taliban sống sót có John Walker Lindh, một người Hoa Kỳ chuyển sang đạo Hồi. Anh ta dọn qua Afghanistan, gia nhập hàng ngũ Taliban chống Liên Minh Phương Bắc trước khi vụ khủng bố 11 tháng Chín (9/11) xẩy ra. Sau khi cuộc nổi loạn bị dẹp tan, một phóng viên CNN nhận ra anh chàng Taliban “Tây Phương” lúc đó đã kiệt sức, cơ thể hết nước, được y tá LLĐB Hoa Kỳ cứu sống, đưa về Hoa Kỳ và ra tòa. Năm 2002, anh ta bị kết tội giúp đỡ, làm việc cho quân thù, kết án 20 năm tù, không được hưởng chế độ tạm dung (parole).

Đầu năm 2002, ít nhất 50 tù binh sống sót trong cuộc nổi loạn, bị đưa qua trại X-Ray, một căn cứ của Mỹ trong vịnh Quantanamo Bay gần Cuba. Đa số họ là người Ả Rập, 21 người quốc tịch Saudi Arabia, 9 người Yemen. Vẫn có những quốc tịch khác như Rasul Kudayev đến từ Kabardino Balkaria, Nga Sô, gia nhập hàng ngũ Taliban từ Uzbekistan. Năm 2004, sau 3 năm bị giam giữ, người Hoa Kỳ thứ hai là Yaser Esam Hamdi, không bị kết án tù, nhưng trục xuất về quốc gia cũ là Saudi Arabia.

Thiếu Tá Mark E. Mitchell, LLĐB được ân thưởng huy chương Thập Tự Ngoại Hạng (Distinguish Services Cross), lần đầu tiên sau trận chiến Việt Nam được huy chương danh dự này. Sĩ quan Hải Quân Stephen Bass được gắn huy chương Thập Tự Hải Quân (Navy Cross). Johnny “Mike” Spann, tổn thất duy nhất về phiá người Hoa Kỳ là người đầu tiên chết trong trận chiến Afghanistan được ân thưởng huy chương Ngôi Sao Tình Báo của cơ quan CIA.

Fort Hays State University

Department of Computer Science

Dallas, Texas Aug. 20, 2021

vđh 

 

No comments:

Post a Comment