Ngô Nhân Dụng
Việc
đưa giàn khoan HD 981 tới “lô 143” trong vùng biển Việt Nam
không thể là do một công ty CNOOC đề ra. Quyết định này phải
xuất phát từ một tính toán của giới lãnh đạo Bắc Kinh. Tại sao
Bắc Kinh muốn “gây sự” với Việt Nam vào thời điểm này? Họ tính
toán những gì? Người Việt cần tìm hiểu các động cơ của Trung
Cộng trong hành động ngang ngược này. Cần biết bên địch muốn gì
để có thể đoán trước các nước cờ của họ trong thời gian sắp
tới, ngõ hầu biết cách đối phó thích hợp.
Giàn
khoan HD 981 mới bắt đầu hoạt động vào năm 2011; từ đó đến nay
chỉ hoạt động ở ngoài khơi Hồng Kông mà không đi hơn. Trước đây
Cộng sản Trung Quốc từng ký hợp đồng cho các công ty nước ngoài
tìm dầu, khí trong vùng biển Hoàng Sa. Nhưng các công ty Âu Mỹ đã
rút lui khi được Việt Nam cho biết đang tranh chấp chủ quyền tại đó.
Trung
Cộng hợp tác với các công ty ngoại quốc giầu kinh nghiệm và trường
vốn thì có lợi hơn; vì các công ty Trung Quốc còn kém trong kỹ thuật
tìm tòi dầu khí ở dưới đáy biển sâu. Công việc phức tạp, nhiều
rủi ro vì chi phí cao mà kết quả không chắc chắn. Năm nay, Trung
Cộng phải tự đem giàn khoan tới tìm dầu tại “lô 143.” Nhưng mục
đích của hành động này không thuần túy để dò tìm dầu lửa. Giới
lãnh đạo Bắc Kinh còn nhắm nhiều mục tiêu khác. Nếu trong sáu
tháng, một năm, họ rút giàn khoan về, vì vùng biển này không
đáng công sức và phí tổn, thì nhiều mục tiêu khác, từ gần tới
xa, cũng đã đạt được. Chúng ta không thể giả thiết họ chỉ nhắm vào
một mục tiêu trước
mắt.
Kế hoạch của Bắc Kinh về lâu dài
gồm hai mặt. Về chính trị, họ muốn làm chủ vùng biển Ðông Nam Á,
gây ảnh hưởng trên các quốc gia trong đó. Về kinh tế họ muốn
chiếm đoạt các tài nguyên, đặc biệt là các mỏ dầu và khí đốt vì
nhu cầu nền công nghiệp đang lên; đồng thời kiểm soát con đường
hàng hải thiết yếu đối với kinh tế Trung Quốc, Nhật Bản, Ðài
Loan và Hàn Quốc. Nói chung, mục tiêu của họ là mở rộng biên
cương ảnh hưởng về phía Nam, tiếp tục tham vọng của các đế quốc từ thời
nhà Tần, nhà Hán cho tới nhà Ðại Thanh.
Người
Việt Nam đã có kinh nghiệm về tham vọng của các triều đình
phương Bắc. Trong quá trình bành
trướng về phương Nam từ hơn 200 năm trước Công Nguyên cho tới
thế kỷ thứ 20, đế quốc Hán tộc chỉ phải dừng lại khi gặp một
“nút chặn” ngăn cản. Nút chặn đó dân tộc Việt, với tinh thần tự
chủ và óc quật cường, Ðứng Vững suốt một Ngàn Năm bị đô hộ.
Người Việt Nam cần giải thích cho các nước Ðông Nam Á biết vai trò
“nút chặn” của dân tộc mình. Việt Nam đã tạo một hàng rào bảo vệ các
nước khác không bị người Hán tràn lấn phương Nam trong hai ngàn
năm qua. Các nước Ðông Nam Á phải đoàn kết cùng dân Việt đề
kháng chống tham vọng của đế quốc Hán tộc.
Sau
ngàn năm Bắc thuộc, đế quốc vẫn tiếp tục xâm lăng trong thế kỷ
15, nhà Minh, và thế
kỷ 18, nhà Thanh. Trước khi Ðại Chiến Thứ Hai chấm dứt, ông
Tưởng Giới Thạch xin đồng minh cho ông đưa quân vào nước ta, từ
vĩ tuyến 16 ra Bắc, để tước khí giới quân Nhật đầu hàng. Trong
thời dân Việt đánh Pháp, Mao Trạch Ðông viện trợ đảng Cộng sản
Việt Nam để thực hiện kế tràn xuống Ðông Nam Á. Năm 1952, Mao bác bỏ chủ
trương đánh chiếm các thành phố vùng đồng bằng của đảng Cộng
sản Việt Nam. Mao cho mở mặt trận ở Lào và Campuchia; để cộng
sản ba nước Việt, Miên, Lào liên kết lại, do các cố vấn Trung
Cộng chỉ đạo. Cùng lúc đó các đảng cộng sản Thái, Mã Lai,
Indonesia được Trung Cộng giúp đỡ; thực hiện kế hoạch nhuộm đỏ
vùng Ðông Nam Á. Ðảng Cộng sản Trung Quốc
tiếp tục theo con đường bành trướng cũ, mặc dù bây giờ họ không
còn tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản nữa.
Mục
tiêu lâu dài của Bắc Kinh vẫn là chiếm ảnh hưởng trùm trên vùng
Ðông Nam Á, như ao cá sau nhà của họ. Họ cần tháo gỡ cái “nút
chặn” trên con đường bành trướng của người Hán trong hai ngàn năm
qua, là một nước Việt Nam độc lập. Hành động đưa giàn khoan dầu HD 981
tức Hải Dương Thạch Du (Haiyang Shiyou 981) vào vùng biển nước
ta trước hết là một thử thách khả năng đề kháng của người dân
Việt Nam còn mạnh tới mức nào. Ðó cũng là một cuộc trắc nghiệm
xem đảng Cộng sản Việt Nam phản ứng ra sao. Chính sách của Bắc
Kinh vẫn là “mềm nắn, rắn
buông,” tùy phản ứng của đối thủ mà thay đổi.
Ngoài
thử thách nhắm vào người Việt, Bắc Kinh còn muốn thăm dò phản
ứng của thế giới khi chứng kiến cảnh Trung Cộng trâng tráo chèn
ép một nước láng giềng nhỏ hơn. Trước hết, họ muốn xem phản ứng của
chính quyền Mỹ ra sao trong một tình thế khó xử. Ông Obama mới khẳng
định những liên hệ quân sự của Mỹ với các nước Nam Hàn, Nhật
Bản, và Philippines. Trong khi dư luận đang bàn tán về chính
sách Mỹ “chuyển trục sang Á Châu” thì Trung Cộng gây hấn với
Việt Nam để các nước Ðông Nam Á thấy rõ Mỹ không hề phản ứng
mạnh. Ngoài ra, Bắc Kinh nhân dịp này cũng thách đố các nước
ASEAN xem họ có dám đứng ra
bênh vực một nước hội viên đang bị xâm lấn hay không.
Có
thể nói, Trung Cộng đã trắc nghiệm thành công. Họ thấy phản
ứng rất nhẹ, gần như hờ hững của Mỹ và các nước ASEAN, khi nghe
chính quyền cộng sản Việt Nam kêu cứu.
Nước
Mỹ không có nhu cầu can thiệp vào quan hệ Việt Trung. Trong
thập niên 1950, sau khi Cộng sản Bắc Hàn tấn công Nam Hàn, Mỹ
muốn ngăn chặn không cho khối cộng sản nuốt chửng các nước Ðông Nam
Á, nên giúp miền Nam Việt Nam. Nhưng khi Nga Xô và Trung Cộng công
khai chống lẫn nhau, chính quyền Mỹ đã giao thiệp trực tiếp với
Bắc; Việt Nam không còn là một địa điểm chiến lược quan trọng
nữa. Năm 1974, khi Hải Quân Trung
Cộng tấn công chiếm Hoàng Sa của nước ta, hạm đội Mỹ ở ngay bờ
biển Philippines vẫn không can thiệp, họ còn làm ngơ không cứu các
quân nhân Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa bị đắm tàu. Năm nay, chắc chắn
Mỹ phải biết trước việc Trung Cộng đưa HD 981 tới vùng biển
nước ta, vì giàn khoan này phải di chuyển trong hàng chục ngày,
đi từ đâu, theo hướng nào, chắc chắn vệ tinh nhân tạo của Mỹ đã
chụp hình cho các cơ quan tình báo Mỹ phân tích nhưng họ không
hề báo động cho chính quyền Việt Nam cũng như Philippines; cũng
không tiết lộ tin tức cho các nhà báo.
Ðối
với quyền lợi của nước Mỹ, những tài nguyên nằm dưới đáy Biển
Ðông thuộc chủ quyền nước nào không quan
trọng. Ðiều quan trọng là dù nước nào làm chủ, các công ty Mỹ
được tham dự vào công việc khai thác bình đẳng với các quốc gia
khác. Và Mỹ muốn bảo vệ đường hàng hải được an ninh không bị
gián đoạn. Trái với lời tuyên truyền của Bắc Kinh, nước Mỹ không
có nhu cầu ngăn cản việc phát triển kinh tế của Trung Quốc.
Ngược lại, khi các nước giầu có hơn thì sẽ mua hàng hóa đắt tiền
của Mỹ nhiều hơn. Sau Thế Chiến Thứ Hai, Mỹ không ngăn cản mà còn
giúp cho các nước đối thủ cũ là Ðức và Nhật Bản phục hồi kinh tế.
Người Mỹ tin tưởng vào sức mạnh kinh tế của họ, sức mạnh đó đặt
trên hệ thống giao thương tự do. Trong chính sách ngoại giao,
các dân tộc không có bạn mà
cũng không có kẻ thù vĩnh viễn, lúc nào cũng chỉ nghĩ tới quyền lợi
quốc gia mà thôi.
Cho nên, đối với
biến cố giàn khoan HD 981 phản ứng của chính phủ Mỹ vẫn chỉ nằm
trong đường lối cũ của họ. Chính phủ Mỹ không có ý kiến về chủ
quyền trên các hòn đảo tranh chấp; họ chỉ yêu cầu không gây nổ
súng, không làm giao thông đường biển mất an ninh. Và họ kêu
gọi các cuộc tranh chấp phải được giải quyết bằng pháp luật. Bắc
Kinh không mong gì hơn.
Phản ứng của
các nước ASEAN còn đáng thất vọng hơn nữa. Ðáng lẽ trong hội
nghị ở Naypyitaw, thủ đô Miến Ðiện các nước này phải tỏ ra đoàn
kết với Việt Nam hơn. Nhưng bản thông cáo chung
của hội nghị cũng nói những điều tổng quát không khác gì thái
độ của chính phủ Mỹ. Chúng ta không thể chỉ trích thái độ hững
hờ của các nước Ðông Nam Á. Từ xưa đến nay, chính quyền Việt Nam
lúc nào cũng nhất thiết theo chủ trương chỉ nói chuyện “song
phương” với Trung Cộng. Ðảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ ra hoàn
toàn hững hờ trước các cuộc tranh chấp giữa Trung Cộng và
Malaysia, Philippines. Ðến khi “giặc vào nhà” mới kêu cứu, nhưng vẫn
vừa tố cáo vừa xin hòa.
Trung Cộng
đã thắng khi các nước ASEAN và Mỹ không có một hành động nào cụ
thể. Họ có thể tiếp tục kéo dài tình trạng giằng co hiện nay ở
Lô 143 trong một thời gian dài nữa. Ðây là hành
động “dạy cho đảng Cộng sản Việt Nam một bài học,” nhưng theo
cách mới. Nhưng Trung Cộng có thể kéo dài trò mèo vờn chuột này
cho đến bao giờ?
Chính dân Việt Nam sẽ
quyết định. Trong ngày Chủ Nhật vừa qua, dân chúng Việt Nam đã
được phép biểu tình công khai “chống Trung Quốc xâm lược.”
Ðảng Cộng sản bất đắc dĩ phải cho phép, vì không cho không được. Nhưng các cuộc biểu tình, từ Nam ra Bắc, đã mở ra những cánh cửa mới cho những người Việt yêu nước! Ai cũng biết, từ mười năm nay những người Việt tham dự biểu tình chống Trung Cộng xâm lăng cũng chính là những người tha thiết muốn cho dân tộc được hưởng cuộc sống tự do dân chủ. Người đi biểu tình chống Trung Cộng đã bị đảng Cộng sản đàn áp bao năm qua. Ðiếu Cầy, Tạ Phong Tần, tới Ðinh Nguyên Kha, vân vân, nay vẫn bị tù, cho nên muốn chống Trung Cộng xâm lược thì phải chống cả bè lũ độc tài lệ thuộc 16 chữ vàng.
Ðảng Cộng sản bất đắc dĩ phải cho phép, vì không cho không được. Nhưng các cuộc biểu tình, từ Nam ra Bắc, đã mở ra những cánh cửa mới cho những người Việt yêu nước! Ai cũng biết, từ mười năm nay những người Việt tham dự biểu tình chống Trung Cộng xâm lăng cũng chính là những người tha thiết muốn cho dân tộc được hưởng cuộc sống tự do dân chủ. Người đi biểu tình chống Trung Cộng đã bị đảng Cộng sản đàn áp bao năm qua. Ðiếu Cầy, Tạ Phong Tần, tới Ðinh Nguyên Kha, vân vân, nay vẫn bị tù, cho nên muốn chống Trung Cộng xâm lược thì phải chống cả bè lũ độc tài lệ thuộc 16 chữ vàng.
Những
cuộc biểu tình khắp nước từ Chủ Nhật vừa qua giống như một vị
thần trong chuyện cổ tích đã thoát ra khỏi cây đèn thần của
Aladin. Không ai có thể nhét vị thần vào trong cây đèn trở lại được
nữa. Phong trào này sẽ gia tăng cường độ, càng đàn áp càng mạnh hơn.
Tiêu biểu trong phong trào này, nhà báo Huy Ðức viết rằng đã
tới lúc đảng Cộng sản Việt Nam phải xét lại chính sách giao
thiệp với Bắc Kinh, và từ
bỏ không bắt chước mô hình kinh tế của Trung Cộng. Huy Ðức thấy
biến cố giàn khoan 981 có thể là động cơ thúc đẩy đảng Cộng sản quay
đầu trở lại với dân tộc Việt, đánh đuổi quân xâm lược Bắc Kinh.
Với
đà phát triền của phong trào chống đối, này, sẽ tới lúc đảng
Cộng sản Trung Quốc thấy họ phải ra tay cứu mạng các đàn em
trong đảng Cộng sản Việt Nam. Nếu không đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tự tan
vỡ hoặc bị lật đổ. Trung Cộng sẽ thấy duy trì một chế độ cộng
sản dễ bảo ở Hà Nội là con đường ít tổn phí nhất trên con đường
gây ảnh hưởng trong vùng Ðông Nam Á. Ngược lại, nếu tiếp tục
con đường uy hiếp, tới lúc nước Việt Nam có một chính
quyền thật sự do dân chúng bỏ phiếu bầu lên, thì chính quyền đó
chắc chắn sẽ “khó bảo” hơn. Con đường tồi tệ nhất là xâm lăng
bằng vũ lực. Sẽ tốn tiền bạc, mạng sống, và phải đối đầu với một
dân tộc đã quen đánh du kích từ thời Triệu Quang Phục. Xâm lăng Việt
Nam sẽ khiến tất cả các nước vùng Á Ðông và Ðông Nam Á bắt đầu
một cuộc chạy đua vũ trang để tự vệ. Tất cả các nước đó sẽ giảm
bớt việc thương mại với Trung Quốc; kinh tế nước Trung Hoa sẽ
đứng khựng lại. Các nước Ðông Nam Á sẽ cùng Mỹ và các nước Âu
Châu viện trợ vũ khí cho người Việt kháng chiến.
Cho
nên, nếu trong những ngày tháng tới dân Việt tiếp tục biểu lộ
tinh
thần quật cường, nếu Cảnh sát biển Việt Nam tiếp tục kiên nhẫn
và dũng cảm bảo vệ mặt biển di sản của tổ tiên, thì sẽ tới ngày
chính Bắc Kinh sẽ phải xuống thang. Không thể đoan chắc ngày nào
chuyện đó sẽ xảy ra. Vì tất cả tùy thuộc thế cân bằng lực lượng; giữa
khả năng đề kháng của dân tộc Việt và tham vọng lớn nhỏ của các
hoàng đế nhà Hán nhà Ðường. Người Việt đang sống lại kinh
nghiệm của tổ tiên trong hai ngàn năm đối đầu với các bạo chúa
phương Bắc; lại nghe tiếng sóng Bạch Ðằng, tiếng ngựa hí ở Ải
Chi Lăng. Các hoàng đế nhà Minh, nhà Thanh đã từng phải bỏ tham
vọng thôn tính nước Việt, tìm đường gỡ thể diện tháo lui. Nhưng
dù Trung Cộng rút lui sớm hay
muộn, vị thần trong cây đèn đã thoát ra ngoài, dân Việt không
thể nào cúi đầu chịu nhục nữa
No comments:
Post a Comment