Tôn
Tử (544-496 Trước Công Nguyên), binh gia nổi tiếng của Trung Hoa,
đã dành hẳn một chương trong cuốn Binh pháp nổi tiếng của ông,
Thiên thứ 13, để bàn về vấn đề tình báo trong quân sự, cụ thể
là tầm quan trọng của việc sử dụng gián điệp trong chiến
tranh.
Hơn 2500 năm sau khi ông mất, những
gì ông viết trong Thiên thứ 13 đó vẫn còn nguyên giá trị của
nó. Trong bất cứ cuộc chiến tranh nào trong thời cận và hiện
đại, từ các Thế Chiến I và II cho đến các cuộc chiến tranh
địa phương, cục bộ và giới hạn, tình báo đều đóng một vai
trò quan trọng. Chiến tranh Việt Nam cũng không đi ra ngoài quy
luật này. Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Ðồng Minh Hoa Kỳ cũng như
phe Cộng sản đều sử dụng tình báo đến mức độ tinh vi. Bài
viết này được thực hiện nhằm giúp bạn đọc có một cái nhìn
tổng quát về hệ thống tình báo của cả hai phe lâm chiến, và
một cái nhìn chi tiết hơn trong một vài trận đánh quan trọng
của cuộc chiến.
Mục Tiêu và Chức Năng của Công Tác Tình Báo
Mục
tiêu của công tác tình báo là cung cấp cho các cơ quan và cá
nhân có trách nhiệm về chính trị và quân sự những thông tin
cần thiết về mọi khía cạnh, đặc biệt là về ý đồ, của phe
địch để họ có thể kịp thời đối phó và chiến thắng đối
phương. Do đó, chức năng chính yếu của công tác tình báo bao
gồm 3 lãnh vực chính sau đây:
• Thu thập tin tức về địch
• Phân tích / tổng hợp và đánh giá tin tức về địch
• Khai thác tin tức: suy đoán ý đồ của địch và tiên đoán hành động của địch
Ngoài chức năng chính yếu vừa kể, công tác tình báo cũng bao gồm luôn cả các lãnh vực phản gián sau đây:
• bảo vệ an ninh, đề phòng sự xâm nhập của địch vào trong hệ thống của mình
• ngụy tạo tin tức để che dấu ý đồ và đánh lừa địch
Trong
lãnh vực thu thập tin tức, có rất nhiều phương thức khác nhau,
trực tiếp cũng có mà gián tiếp cũng có, nhưng nói chung, hai
phương thức chính là:
• qua con người (thí dụ: các điệp viên), tức là tình báo nhân sự (tiếng Anh gọi là Human Intelligence hay HUMINT)
•
qua máy móc, theo dõi các tin tức của địch, tức là tình báo
tín hiệu (tiếng Anh gọi là Signal Intelligence hay SIGINT)
HUMINT
bao gồm công tác thu thập tin tức từ rất nhiều nguồn tin (loại
người) khác nhau, nhưng quan trọng nhứt là những tin tức do điệp
viên của phe ta cung cấp bằng nhiều cách thức khác nhau, cũng
như tin tức thu thập được qua thẩm vấn các tù hàng binh, các
cá nhân hoạt động cho địch bị bắt hay các điệp viên của địch
đã về hàng.
SIGINT
bao gồm tất cả các hình thức theo dõi, chặn bắt tín hiệu
truyền thông và điện tử giữa người và người, cũng như giữa
máy và máy, trong đó có rất nhiều trường hợp phải giải mã
vì các thông điệp đã được đối phương ngụy trang bằng mã số
trước khi truyền đi.
Do đòi
hỏi của các công tác chuyên môn phức tạp vừa kể trên, các hệ
thống tình báo luôn luôn phải có các trung tâm huấn luyện để
đào tạo nhân viên, các trung tâm thẩm vấn để khai thác tin tức
từ các người của phe địch, và phải có đầy đủ các trang thiết
bị cần thiết để theo dõi và chặn bắt tín hiệu truyền thông
và điện tử của phe địch.
Hệ Thống Tình Báo của VNCH
Những
thông tin trình bày dưới đây phần lớn tập trung trong khung thời
gian của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa, tức là trong thời gian cuộc
chiến đã leo thang với sự tham gia của quân đội Mỹ. Trong thời
Ðệ Nhất Cộng Hòa, hệ thống tình báo của VNCH còn rất thô sơ,
gần như chỉ là một bộ máy mật vụ với nhiệm vụ chính yếu là
bảo vệ chế độ mà thôi. Cho đến cuối năm 1960, VNCH chỉ có 2 cơ
quan sau đây:
• Sở
Nghiên Cứu Chính Trị Xã Hội: thành lập năm 1956, trực thuộc
Phủ Tổng Thống, do Bác sĩ Trần Kim Tuyến chỉ huy, có nhiệm vụ
chính là công tác tình báo và bảo vệ chế độ. Họạt động của
Sở bên ngoài lãnh thổ VNCH rất giới hạn, chủ yếu chỉ có tại
Cao Miên.1 Sở này bị giải thể năm 1962, sau vụ ném bom Dinh Ðộc
Lập của 2 phi công Không Lực VNCH là Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú
Quốc.
• Ðoàn Công Tác Ðặc
Biệt Miền Trung: thành lập năm 1957, do Dương Văn Hiếu chỉ huy,
có nhiệm vụ chính là công tác tình báo, phản gián, nhằm phá
vỡ các tổ chức nội tuyến của Bắc Việt tại Miền Nam. Ðoàn này
bị giải tán sau vụ đảo chánh ngày 1-11-1963 lật đổ chế độ
Ngô Ðình Diệm.2
Hệ
thống tình báo của VNCH khá phức tạp, bao gồm một số cơ quan
và đơn vị, với chức năng về an ninh và tình báo chồng chéo lên
nhau, trong đó quan trọng nhứt là Khối Cảnh Sát Ðặc Biệt
(thuộc Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia), Nha An Ninh Quân Ðội, Tổng
Nha An Ninh Hành Chánh, Phủ Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo, Phòng 2
và Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH.
Khối Cảnh Sát Ðặc Biệt (CSÐB)
Sắc
Lệnh số 17A/TT/SL do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ký ngày
1-3-1971 cải tổ ngành cảnh sát công an, biến Tổng Nha Cảnh Sát
Quốc Gia (CSQG) thuộc Bộ Nội Vụ, thành Bộ Tư Lệnh CSQG trực
thuộc Phủ Thủ Tướng.3 Khối CSÐB là một bộ phận quan trọng của
Bộ Tư Lệnh CSQG, dưới quyền chỉ huy của 1 vị Trưởng Khối, Phụ
Tá Tư Lệnh CSQG, Ðại Tá Huỳnh Thới Tây, về sau, ngày 1-2-1975,
thăng cấp Chuẩn Tướng.4
Nhiệm vụ của Khối CSÐB thuộc về 2 lãnh vực Tình Báo và Phản Tình Báo:
• Tình
Báo: thu thập tin tức về phe Cộng sản và những tổ chức ngoại
vi của Cộng sản thông qua 3 bộ phận là Tình Báo Diện Ðịa,
Tình Báo Xâm Nhập, và Kế Hoạch Phượng Hoàng
• Phản
Tình Báo: cài người vào các đoàn thể chính trị, tôn giáo,
nghiệp đoàn, thanh niên, sinh viên, vv. để phát hiện các phần tử
Cộng sản trà trộn vào các đoàn thể này.
Ðể
thực hiện tốt nhiệm vụ vừa kể trên, Khối CSÐB đã được quy
định với một hệ thống tổ chức có quy mô toàn quốc như sau:
• Tại
trung ương, đứng đầu là 1 vị Trưởng Khối được xếp ngang hàng
với một Tổng Giám Ðốc, bên dưới gồm một số Nha do các vị
Giám Ðốc chỉ huy; đó là các Nha Tình Báo, Nha Phản Tình Báo,
Nha Ðiều Hành Công Tác, và Nha Yểm Trợ; dưới các Nha có các
Sở (do Chánh Sở chỉ huy), Phòng (do Chủ sự chỉ huy), và Ban (do
Trưởng Ban chỉ huy) đảm trách các công tác chuyên môn khác nhau
• Tại địa phương có các cấp:
–
Cấp Ðô Thành và các Khu: do một Giám Ðốc chỉ huy, với 4 Sở
(Nghiên Cứu, Huấn Luyện, Công Tác và Yểm Trợ), bên đưới có các
Phòng, Ban chuyên môn
–
Cấp Tỉnh và Thị Xã: do một Trưởng F chỉ huy, được xếp ngang
hàng với một Chánh Sở, bên dưới có các Trưởng G điều khiển 4
Phòng (Nghiên Cứu, Công Tác, Yểm Trợ, và Thẩm Vấn)
– Cấp Quận: do một Trưởng G chỉ huy, được xếp ngang hàng một
Chủ Sự, bên dưới có các Trưởng Ban điều khiển 4 Ban (Nghiên
Cứu, Công Tác, Khai Thác, và Văn Thư + Yểm Trợ) 5
Nha An Ninh Quân Ðội
Tên
của cơ quan an ninh này được giữ như thế suốt thời Ðệ Nhất
Cộng Hòa cho đến ngày 19-6-1965 thì đổi thành Cục An Ninh Quân
Ðội, trực thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị.6 Nhiệm vụ
chính yếu của Cục thuộc lãnh vực phản gián, nhằm chống lại
sự xâm nhập của địch vào hàng ngũ quân nhân QLVNCH.
Tại trung ương, Cục gồm có 5 Khối: Hành Chánh, Huấn Luyện, An Ninh, Phản Gián, và Tiếp Vận.
Tại địa phương, Cục có các đơn vị (Phòng, Ban) theo từng cấp:
• Khu: Thủ đô và tất cả 4 Vùng Chiến Thuật
• Tiểu Khu: tất cả các Tỉnh và Thị Xã
• Chi Khu: tất cả các Quận
Ngoài nhiệm vụ chính là phản gián như vừa kể trên, Cục còn được giao một số nhiệm vụ khác về an ninh như:
• Nhận xét, cho ý kiến về các bổ nhiệm, thăng cấp trong QLVNCH
• Cấp thông hành về an ninh (security clearances) cho quân nhân và công chức
• Duyệt xét và chấp thuận cho các đơn xin xuất ngoại du học hay tu nghiệp của các quân nhân và công chức
Cục An
Ninh Quân Ðội có một đội ngũ nhân sự gồm tất cả 4328 người,
trong đó Tổng Hành Dinh tại Sài Gòn có 657 người, Biệt Khu Thủ
Ðô có 221 người, mỗi Quân Khu có 50 người, mỗi Tiểu Khu (cấp
Tỉnh) có 30 người, mỗi Chi Khu (cấp Quận) có 6 người; ngoài ra
mỗi Quân Ðoàn có 20 người, và mỗi Sư Ðoàn có 25 người.7
Cục An Ninh Quân Ðội được quyền bắt giữ và thẩm vấn mọi công dân của VNCH, cả quân nhân lẫn dân sự.
Tổng Nha An Ninh Hành Chánh
Năm
1971, sau vụ gián điệp Việt cộng Huỳnh Văn Trọng, một cơ quan an
ninh tình báo cho phía dân sự, giống như Cục An Ninh Quân Ðội
dành cho bên quân sự, được thành lập và mang tên là Tổng Nha An
Ninh Hành Chánh.8 Tổng Nha này hình thành do quyết định nâng Nha
An Ninh Hành Chánh của Bộ Nội Vụ lên thành Tổng Nha An Ninh
Hành Chánh, đặt trực thuộc Phủ Thủ Tướng, với vị Tổng Giám
Ðốc đầu tiên là Ðại Tá Nguyễn Văn Tuấn, và gồm có một số
Sở. Sở đầu tiên được thành lập là Sở Huấn Luyện với vị
Chánh Sở là Thiếu Tá Võ Thành Ðức (từ Khối CSÐB của Bộ Tư
Lệnh CSQG đặc phái sang). Sở Huấn Luyện đã tổ chức được một
vài khóa huấn luyện tại các Quân Khu cho các vị Phó Quận
Trưởng Hành Chánh thuộc các tỉnh trong Quân Khu về các vấn đề
An Ninh Cơ Sở, An Ninh Nhân Sự, và An Ninh Tài Liệu.9 Tổng Nha
này vẫn còn đang trong giai đoạn phát triển cơ sở khi Miền Nam
thất trận nên chưa lập được nhiều thành tích như Cục An Ninh
Quân Ðội.
Phủ Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo
Phủ
Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo (sau đây sẽ viết tắt là PÐU; tài
liệu của Hoa Kỳ khi dịch sang tiếng Anh thường dùng từ Central
Intelligence Organization, hay Central Intelligence Office = CIO) được
thành lập bởi Sắc Lệnh số 109/TTP do Tổng Thống Ngô Ðình Diệm
ký ngày 5-5-1961.10Tuy nhiên PÐU chỉ chính thức hoạt động từ năm
1962 sau khi hoàn tất cơ cấu tổ chức và bắt đầu tuyển dụng
nhân viên và huấn luyện.11 Sau cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963,
lật đổ chế độ Ngô Ðình Diệm, PÐU trải qua nhiều xáo trộn với 5
vị Ðặc Ủy Trưởng (toàn là quân nhân, 4 tướng lãnh và 1 đại
tá) trong 4 năm liền (1963-1967).12 Ngày 7-5-1968, Chuẩn Tướng
Nguyễn Ngọc Loan, Ðặc Ủy Trưởng, bị thương nặng trong một cuộc
đụng độ với Việt Cộng (trong đợt 2 của cuộc Tổng Tấn Công Mậu
Thân) và được đưa ra nước ngoài trị thương. Tháng 9-1968, Trung
Tá Nguyễn Khắc Bình (Bí thư của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu)
được cử thay thế và PÐU được đặt trực thuộc Phủ Tổng Thống.
Ðặc Ủy Trưởng Nguyễn Khắc Bình về sau thăng lên cấp Ðại Tá
tháng 6-1969, thăng Chuẩn Tướng ngày 1-11-1972, và thăng Thiếu
Tướng ngày 1-2-1975.13 Chính Ðặc Ủy Trưởng Bình là người đã lên
kế hoạch và thực hiện việc cải tổ PÐU.
Sau khi hoàn tất việc cải tổ, PÐU có một cơ cấu tổ chức như sau: 14
• Khối
Kế Hoạch: bí danh là Ban A, có nhiệm vụ tổng hợp tất cả các
tin từ 2 Khối Quốc Nội và Quốc Ngoại; 2 Ban quan trọng của
Khối Kế Hoạch là:
– Ban A10: có nhiệm vụ soạn thảo bản tin tình báo hàng ngày để trình lên Tổng Thống vào mỗi buổi sáng 15
– Ban A8: phụ trách các công tác đặc biệt do Ðặc Ủy Trưởng giao phó
• Khối
Tình Báo Quốc Ngoại: bí danh là Ban E, Khối này đặc trách
công tác tình báo tại một số quốc gia như Lào, Kampuchia, Thái
Lan, Nhật, Hong Kong và Pháp.
• Cục
Tình Báo Quốc Nội: bí danh là Ban T, Cục này đặc trách công
tác phản gián trong nước, với các 3 Phân cục được giao phó các
công tác như sau:
– Phân
cục Ðiệp báo: bí danh là Ban K, thu thập tin tức của địch qua
các đội công tác tại tất cả các tỉnh và thị xã.
– Phân cục Phản gián: bí danh là Ban U, với công tác chính là
cài người vào hàng ngũ địch và phát hiện những điệp viên của
địch cài vào hàng ngũ của ta.
– Phân cục An ninh Chính trị: bí danh là Ban Z, công tác chính
là theo dõi, xâm nhập vào các chính đảng, phong trào, hội
đoàn, nghiệp đoàn để phát hiện và phá vỡ các âm mưu xâm nhập
của địch.
• Khối Yểm Trợ:
bí danh là Ban Y, ngoài các công tác yểm trợ thông thường qua 2
Sở là Sở Nhân Viên và Sở Hành Chánh Tài Chánh, Khối này còn
có Sở Kỹ Thuật, với bí danh là Ban M, phụ trách tất cả các
công tác kỹ thuật chuyên môn trong ngành tình báo như chụp hình,
quay phim, in ấn, truyền tin, nhận tin, giải mã, vv.
• Trung
Tâm Huấn Luyện Tình Báo Quốc Gia: bí danh là Ban D, phụ trách
huấn luyện nghiệp vụ tình báo cho tất cả nhân viên các cấp
của PÐU
• Trung Tâm Quốc Gia
Thẩm Vấn: bí danh là Ban Q, với nhiệm vụ chính là thẩm vấn
các tù hàng binh và cán binh Cộng sản đã được chiêu hồi.
Từ
tháng 11-1971, một ban mới được thành lập trong Khối Kế Hoạch
với bí danh là Ban A17 do một Phụ tá Ðặc biệt của Ðặc Ủy
Trưởng điều khiển, với nhiệm vụ chính là theo dõi và xâm nhập
vào các phong trào và tổ chức thanh niên – học sinh – sinh viên,
đặc biệt là Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, để phá vỡ các âm mưu
và hoạt động của các cán bộ và đoàn viên mà Thành Ðoàn Thanh
Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh đã cài vào các phong trào và tổ
chức đó.16
Tổng
số nhân viên của PÐU là 1.400 người trong đó nhân viên cao cấp có
trình độ tốt nghiệp đại học chiếm đến 60%, được hưởng các
quy chế đặc biệt như được hoãn dịch (gốc dân sự) hay được giải
ngũ (gốc quân nhân).17
Tuy
được tổ chức rất có quy củ với ngân sách dồi dào và một lực
lượng nhân sự có trình độ cao, PÐU đã không hoàn thành tốt
trong công tác tình báo chiến lược vì càng ngày càng nghiêng
nặng về chính trị và sau cùng trở thành một “cơ quan tình báo
của Phủ Tổng Thống”.18
Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH
Bộ
Tổng Tham Mưu (BTTM) QLVNCH là một cơ cấu quân sự khổng lồ của
VNCH với nhiệm vụ yểm trợ và điều hợp hoạt động của tất cả
các quân binh chủng và các đại đơn vị của QLVNCH qua rất nhiều
Nha Sở và Phòng Ban, trong đó Phòng 2 là Phòng giữ nhiệm vụ
về tình báo nhân sự (HUMINT), do một sĩ quan cấp Ðại Tá chỉ
huy. Vị Trưởng Phòng 2 cuối cùng của BTTM là Ðại Tá Hoàng
Ngọc Lung, xuất thân Trường Sĩ Quan Nam Ðịnh, Khóa 1 (năm
1951).19
Phòng 2 BTTM có cơ cấu tổ chức như sau: 20
Tuy
không phải là cơ quan tình báo duy nhứt của QLVNCH (vì ngoài
Phòng 2 BTTM còn có Phòng 7 BTTM, Cục An Ninh Quân Ðội, các cơ
quan tình báo của Hải Quân và Không Quân), Phòng 2 BTTM là bộ
phận quan trọng nhất chịu trách nhiệm về quân báo, đặc biệt là
tình báo tác chiến (combat intelligence), của QLVNCH, với một
hệ thống đơn vị trực thuộc trải rộng khắp các đơn vị từ cấp
Quân đoàn xuống đến cấp Tiểu đoàn, và từ cấp Vùng xuống đến
cấp Chi Khu (Quận). Tại trung ương, Phòng 2 BTTTM có 2 đơn vị là
Ðơn Vị 101 phụ trách thu thập tin tức tình báo, và Ðơn Vị 306
tức Trung Tâm Quân Báo phụ trách khai thác tin tức tình báo. Sĩ
quan Phó Trưởng Phòng 2 đương nhiên kiêm mhiệm chức vụ Chỉ Huy
Trưởng Ðơn Vị 306.
Ðơn Vị 101
Ðơn vị này đã được đổi tên nhiều lần như sau:
• 1961-1963: Biệt Ðội Sưu Tập
• 1964-1965: Biệt Ðoàn 300
• 1965-1968: Liên Ðoàn Yểm Trợ 924
• 1968-1975: Ðơn vị 101
Vị
Chỉ Huy Trưởng cuối cùng của Ðơn Vị 101 là Ðại Tá Lê Ðình Luân
tốt nghiệp Khóa 2 (tháng 4-1953) Trường Sĩ Quan Thủ Ðức.21 Tất
cả các sĩ quan của đơn vị đều phải trải qua khóa huấn luyện
tình báo tại Trường Tình Báo của Lục Quân Hoa Kỳ tại Okinawa
(Nhật Bản).
Ðơn Vị 101 có tổ chức hàng dọc như sau: 22
•
Ðoàn: ở cấp Vùng hay Quân Ðoàn, có tất cả 5 Ðoàn mang bí số
65, 66, 67, 68, và 69 (cho Biệt Khu Thủ Ðô), chỉ huy trưởng là
một sĩ quan mang cấp bậc Trung Tá
• Toán: ở cấp Khu hay Sư Ðoàn, chỉ huy trưởng là một sĩ quan mang cấp bậc Thiếu Tá
• Lưới: ở cấp Tiểu Khu, chỉ huy trưởng là một sĩ quan mang cấp bậc Ðại Úy
Công
tác thu thập tin của Ðơn Vị 101 bao gồm cả 2 lãnh vực: tình
báo tác chiến và tình báo lãnh thổ (territorial intelligence)
và phương thức thu thập chính được sử dụng là tình báo nhân
sự (HUMINT) qua 2 lối:
• Công
khai: thu thập và khai thác tin của các Phòng 2 và Ban 2 của
các cấp đơn vị từ quân đoàn xuống đến tiểu đoàn, và các cấp
lãnh thổ từ khu xuống đến chi khu, qua việc thẩm vấn và khai
thác tin từ tù hàng binh, các tài liệu bắt được của địch, và
việc chận bắt tín hiệu truyền tin của địch
•
Bí mật: thu thập tin của mật báo viên của các Lưới được tổ
chức cho xâm nhập vào các vùng xôi đậu, ngay cả trong hậu phương
của địch
Ðơn Vị 306 (Trung Tâm Quân Báo)
Dưới
quyền chỉ huy của Phó Trưởng Phòng 2 BTTM, Ðơn Vị 306 thật ra
gồm nhiều trung tâm quân báo với những chức năng khác nhau bao
gồm: 23
• Trung tâm quân báo
hỗn hợp: cung cấp tin tình báo tác chiến và lãnh thổ cho
Phòng 2 BTTM QLVNCH, và Ban 2 của Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ
tại Việt Nam (J2-MACV)
• Trung
tâm khai thác tài liệu hỗn hợp: tập trung và khai thác tất cả
các loại tài liệu (kể cả sách báo, phim ảnh chính thức của
Bắc Việt) thu được của địch, và báo cáo cho Phòng 2 TTM và
J2-MACV
• Trung tâm khai thác
quân dụng hỗn hợp: tìm hiểu, khai thác tất cả các loại vũ
khí, đạn dược, quân dụng tịch thu được của địch, và soạn thảo
tài liệu Chiến cụ của Việt Cộng để phổ biến cho tất cả các
đơn vị của QLVNCH học tập
• Trung
tâm thẩm vấn hỗn hợp: có nhiệm vụ thẩm vấn các tù hàng
binh, hồi chánh viên quan trọng, từ cấp đại đội trở lên; khi
tình hình chiến trường sôi động, có thể tăng phái người cho
các đại đơn vị
• Trung tâm quản trị quân báo: quản trị toàn thể nhân viên quân báo tại trung ương cũng như tại địa phương.
Sau khi quân Mỹ rút khỏi VNCH, Ðơn Vị 306 được cải tổ thành các Khối như sau:
• Khối Quốc nội: gồm có các Ban như sau:
– Ban quốc nội tại 4 Vùng Chiến Thuật
– Ban ước tính: cung cấp các báo cáo định kỳ
– Ban nghiên cứu: về tổ chức của địch
• Khối Quốc ngoại: bao gồm các công tác:
– Theo dõi tình hình Bắc Việt, đặc biệt là viện trợ của các nước Cộng sản
– Theo dõi tình hình chính trị, quân sự của Lào và Kampuchia
– Gồm các Ban: Bắc Việt, Ðông Nam Á, Nghiên Cứu, Liên Lạc Quốc
Ngoại (phối hợp, khai thác các báo cáo của các Tùy Viên Quân
Sự tại các Tòa Ðại Sứ của VNCH)
• Khối
Sưu tập: thu thập, lưu trữ, kiểm soát tất cả các loại tin thu
thập được từ mật bào viên, tù hàng binh, hồi chánh viên, cũng
như từ các bộ phận tình báo tín hiệu (SIGINT)
• Khối Kế, huấn, tổ: phụ trách các lãnh vực kế hoạch, huấn luyện và tổ chức cho toàn ngành quân báo
Việc
huấn luyện cho nhân viên Phòng 2 BTTM được thực hiện tại Trường
Cây Mai. Trước năm 1961 Trường Cây Mai mang tên là Trường Quân Báo
và Chiến Tranh Tâm Lý mà Chỉ Huy Trưởng là Thiếu Tá Phạm Văn
Sơn. Từ đầu năm 1961, Trường Cây Mai đổi tên là Trường Quân Báo
và bắt đầu cung cấp những khóa huấn luyện về tình báo chiến
trường (Field Operation Intelligence, hay FOI) do Biệt Ðội Sưu Tập
phối hợp tổ chức với các huấn luyện viên Hoa Kỳ, giảng dạy
trực tiếp bằng tiếng Việt. Khóa 1 gồm 16 sĩ quan, khóa 2 gồm
25 sĩ quan, và các khóa kế tiếp về sau được gửi đi học tại
Okinawa, Nhật Bản.24
Phòng 2
BTTM còn có 1 bộ phận nữa rất quan trọng, mặc dù không có
hiện diện trong sơ đồ tổ chức: đó là Phòng Tình Hình
(Situation Room). Phòng này được sử dụng như một trung tâm hành
quân của Phòng 2 BTTM trong những thời điểm sôi động với những
trận đánh lớn ngoài chiến trường, với những hệ thống truyền
tin trực tiếp với các Quân đoàn, Sư đoàn, vv. để kịp thời trao
đổi các tin tức về tình báo và chiến thuật với các đơn vị
đang lâm chiến.25
Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH
Phòng 7
BTTM QLVNCH chịu trách nhiệm về công tác tình báo tín hiệu
(SIGINT) và các hoạt động về an ninh truyền tin. Về SIGINT,
Phòng 7 đảm nhận cả 2 lãnh vực: Tình Báo Thông Tin
(Communications Intelligence = COMINT) và Tình Báo Ðiện Tử
(Electronic Intelligence = ELINT). Vị sĩ quan đã chịu trách nhiệm
thành lập Phòng 7 vào năm 1964 và đảm nhận chức vụ Trưởng
Phòng 7 cho đến tháng 4-1975 là Chuẩn Tướng Phạm Hữu Nhơn, tốt
nghiệp Khóa Sĩ Quan Trừ Bị Nam Ðịnh (1951).
Phòng 7 BTTM được tổ chức như sau: 26
Phòng 7
BTTM gồm có tất cả 3.500 nhân viên phục vụ tại các đơn vị ở
trung ương và một số đơn vị tại địa phương. Tại trung ương,
Phòng 7 được chia thành 3 Khối, 3 đơn vị đặc biệt và Biệt Ðội
Kỹ Thuật. Tại địa phương, nhân viên của Phòng 7 hoạt động trong 4
Trung Tâm SIGINT tại Ðà Nẵng (Vùng I), PLeiku (Vùng II), Sài Gòn
(Vùng III), và Cần Thơ (Vùng IV).
Khối I
gồm có 3 Ban: 3, 4 và 5. Ban 3 phụ trách giữ liên lạc với các
Phòng 2 (Tình Báo) và Phòng 3 (Hành Quân) của BTTM, cập nhật
thông tin về tình hình địch, soạn thảo và phổ biến các báo
cáo về tình báo kỹ thuật. Ban 4 soạn thảo các báo cáo về
không thám và phát hiện điện đài, theo dõi các chuyến bay và
báo cáo những thay đổi về kỹ thuật của các điện đài của
địch. Ban 5 xử lý các cung từ của tù hàng binh liên quan đến
tình báo tín hiệu, các bản tin của các đài bạn (BBC, VOA) và
địch, soạn thảo các bản tin hàng ngày, và duy trì liên lạc
với các cơ quan tình báo dân sự và quân sự khác về những vấn
đề có liên quan đến tình báo tín hiệu.
Khối
II gồm 2 Ban, Ban 6 và Ban 7, và phụ trách về an ninh truyền tin.
Ban 6 xử lý các dữ liệu kỹ thuật và soạn thảo các báo cáo
về an ninh truyền tin và đề nghị những biện pháp sửa chữa. Ban 7
nghiên cứu các biện pháp an ninh về mật mã, duy trì liên lạc
với Phòng 6 (Phản Gián) của BTTM và tổ chức thanh tra về mật
mã trong toàn quân.
Khối
III, gồm 3 Ban là Ban 8, Ban 9 và Ban 10, chịu trách nhiệm về
nghiên cứu, cải thiện, và phối hợp giữa yểm trợ và huấn
luyện. Ban 8 lo về các vấn đề tổ chức, tuyển mộ, hoạt động,
yểm trợ, bảo trì và vận chuyển. Ban 9 chịu trách nhiệm về
kiểm tra các kế hoạch hoạt động ngắn hạn. Ban 10 lo về huấn
luyện chuyên viên, theo dõi huấn luyện, và soạn thảo tài liệu
huấn luyện.
Ðơn Vị
15, trong khoảng thời gian 1961-70, là đơn vị duy nhất chịu trách
nhiệm về kiểm thính. Về sau công tác này được giao cho các
trung tâm SIGINT tại các vùng chiến thuật, và đơn vị này được
giao nhiệm vụ giải mã các thông địch được mã hóa của địch.
Ðơn Vị
16 chịu trách nhiệm về an ninh truyền tin cho QLVNCH và một số
cơ quan trọng yếu của chính phủ, soạn thảo các báo cáo về
các vi phạm an ninh truyền tin, thanh tra các cơ sở về mật mã
và tài liệu mật, và phối hợp với Phòng 6 (Phản Gián) của
BTTM để duyệt xét các thủ tục về mật mã trong QLVNCH.
Ðơn Vị
17, được thành lập vào năm 1970 để phối hợp với hai Phi Ðoàn
716 và 718 của Không Quân VNCH trong việc thiết lập các phi trình
cho các phi vụ tình báo tín hiệu. Các Phi Ðoàn này là đơn vị
của Không Ðoàn 33 thuộc Sư Ðoàn 5 Không Quân đóng tại căn cứ Tân
Sơn Nhất. Phi Ðoàn 716 có 5 chiếc phi cơ U-6A, và Phi Ðoàn 718 có
33 chiếc phi cơ EC-47.
Bốn
Trung Tâm SIGINT tại 4 vùng chiến thuật có trách nhiệm thu thập
tin tức qua các công tác kiểm thính và khám phá địa điểm phát
tuyến của các điện đài của địch. Ðể hỗ trợ cho hoạt động
của các Trung Tâm này còn có thêm một số trạm kiểm thính tại
Phú Bài (Vùng I), Sông Mao (Vùng II), Vũng Tàu (Vùng III) và
đảo Côn Sơn. Tại các vùng chiến thuật, mỗi sư đoàn bộ binh đều
có 1 đơn vị thuộc Biệt Ðội Kỹ Thuật chịu trách nhiệm về
tình báo tín hiệu.
Hệ Thống Tình Báo của Hoa Kỳ
Hoa Kỳ
cũng có 2 hệ thống tổ chức tình báo song hành tại VNCH. Ðó
là Trạm CIA Sài Gòn (CIA Saigon Station, Central Intelligence Agency
= Cơ quan Trung Ương Tình Báo) nằm trong Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ tại
Sài Gòn và Ban 2 của Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam
(J2-MACV).
Trạm CIA Sài Gòn
Trong
thời gian Chiến Tranh Việt Nam, từ 1961đến 1975, Trạm CIA Sài
Gòn đã trải qua các đời Trưởng Trạm (Chief of Station, hay COS)
sau đây:
• 1961-1962: William Colby, về sau trở thành Giám Ðốc CIA (Director of Central Intelligence, hay DCI) 1973-1976
• 1962-1963: John Richardson
• 1963-1965: Peer de Silva
• 1965: John L. Hart
• 1966: John Lapham
• 1966-1968: Gordon L. Jorgensen
• 1968-1972: Theodore Shackley
• 1972-1975: Thomas Polgar
Trạm
CIA Sài Gòn không những thu thập tin tình báo về Việt Cộng mà
còn theo dõi tất cả các hoạt động của chính phủ VNCH, và, sau
khi Hoa Kỳ gửi quân tham chiến tại Miền Nam, soạn thảo và phổ
biến những báo cáo hàng tuần về tình hình tại VNCH và cuộc
chiến. Loại báo cáo hàng tuần này, với tựa đề là “Situation in South Vietnam,” thường gồm khoảng 20-30 trang với một số bản đồ và biểu đồ, và được thực hiện theo một dàn bài thống nhất như sau: 27
• Toát yếu
• Bản đồ Nam Việt Nam
• Tình hình Miền Nam Việt Nam
– Tình hình chính trị
– Tình hình quân sự
– Xây dựng nông thôn
• Bản đồ Bắc Việt Nam
• Các phát triển trong Khối Cộng sản
• Các phát triển tại các nước đệ tam
• Phụ đính:
– Thống kê chiến trường của QLVNCH: số thương vong
– Thống kê chiến trường của QLVNCH: số các cuộc giao tranh và tấn công của địch
– Các chỉ số kinh tế của VNCH
– Thống kê giá bán lẻ hàng tuần tại Sài Gòn
Ngoài ra,
Trạm
CIA Sài Gòn còn thực hiện rất nhiều công tác an ninh tình báo
khác tại VNCH trong suốt thời gian chiến tranh. Công tác được
nói đến nhiều nhất là Chiến dịch Phượng Hoàng nhằm nhận diện
và tiêu diệt hạ tầng cơ sở của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
(Việt Cộng) tại nông thôn Miền Nam. Từ 1965 cho đến 1972, Chiến
dịch Phượng Hoàng đã “vô hiệu hóa” tổng cộng 81.740 cá nhân bị
tình nghi là người của Mặt Trận,28 và “góp phần tiêu diệt và phá hoại đến 95% cơ sở cách mạng ở một số khu vực tại miền Nam Việt Nam.” 29
J2-MACV
Khi Bộ
Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự của Hoa Kỳ tại VNCH (MACV = Military
Assistance Command Vietnam) được thành lập vào tháng 2-1962, sau
rất nhiều tranh cãi trong chính phủ của Tổng Thống John
F.Kennedy, và đặt dưới quyền chỉ huy của một vị tướng 4-sao,
Ðại Tướng Paul Harkins, vai trò của Hoa Kỳ tại Việt Nam trong
việc giúp đỡ chính phủ VNCH chống lại phong trào nổi dậy
(counterinsurgency) của Cộng sản tại Miền Nam được nâng lên một
tầm quan trọng cao hơn. Lúc đó Phái Bộ Cố Vấn Viện Trợ Quân
Sự của Hoa Kỳ tại VNCH (MAAG = Military Assistance Advisory Group
dưới quyền chỉ huy của một vị tướng 3-sao, Trung Tướng Lionel C.
McGarr) vẫn còn tiếp tục hoạt động thêm một thời gian gần một
năm mới bị hủy bỏ và hoàn toàn sáp nhập vào MACV. Tuy nhiên,
trong một thời gian hơn 3 năm (từ tháng 2-1962 đến tháng 3-1965),
bộ phận J2-MACV chỉ làm nhiệm vụ cố vấn, hỗ trợ và huấn
luyện cho hệ thống quân báo của VNCH mà thôi. Ðứng đầu J2-MACV
lúc đó chỉ là một sĩ quan cấp Ðại Tá, Ðại Tá James M.
Winterbottom, một sĩ quan Không Quân.30 Ðầu năm 1964, sau khi cuộc
cải tổ cơ cấu chỉ huy của MACV được hoàn tất, do đề nghị của
Tướng Harkins và được Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara
chấp thuận, cấp số của chức vụ Phụ Tá Tham Mưu Trưởng MACV,
Trưởng Ban 2 (Assistant Chief of Staff MACV, J2) được nâng từ cấp
Ðại Tá lên cấp Tướng. Ngày 15-1-1964, Chuẩn Tướng Carl A.
Youngdale, thuộc Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, được cử làm Trưởng
J2-MACV và tổng số nhân viên của J2 tăng từ 76 lên 135
người.31 J2-MACV lần lượt hoạt động dưới quyền chỉ huy của các
vị tướng sau đây:
• Từ 1-1962 đến 7-1965: Chuẩn Tướng Carl A. Youngdale, Thủy Quân Lục Chiến, hồi hưu với cấp bậc Thiếu Tướng
• Từ 7-1965 đến 5-1967: Thiếu Tướng Joseph A. McChristian, Lục Quân, hồi hưu với cấp bậc Thiếu Tướng
• Từ 5-1967 đến 5-1969: Thiếu Tướng Philip B. Davidson, Lục Quân, về hưu với cấp bậc Trung Tướng
• Từ 5-1969 đến 8-1972: Thiếu Tướng William E. Potts, Lục Quân, hồi hưu với cấp bậc Trung Tướng
Về
phần MACV, vì không tán thành chủ trương lật đổ Tổng Thống Ngô
Ðình Diệm, Tướng Harkins có mâu thuẫn lớn với Ðại sứ Hoa Kỳ
lúc đó là ông Henry Cabot Lodge, Jr., và sau cùng bị thay thế
bằng phó tướng của ông là Trung Tướng (3-sao) William C.
Westmoreland, được thăng lên cấp Ðại Tướng (4-sao) vào cùng ngày
1-8-1964 khi được cử nắm giữ chức vụ Tư Lệnh MACV.
Sau khi
Hoa kỳ ồ ạt đưa quân bộ chiến vào VNCH năm 1965 (vào cuối năm
1965, quân số Hoa Kỳ tại Miền Nam đã tăng từ 23.000 lên đến
184.000), nhu cầu về tình báo chiến trường (combat intelligence)
của MACV gia tăng mãnh liệt. Cấp số của Trưởng Ban J2-MACV cũng
được nâng thêm một bậc từ cấp Chuẩn Tướng lên cấp Thiếu Tướng.
Thiếu Tướng Joseph A. McChristian được cử thay thế Chuẩn Tướng
Carl A. Youngdale từ tháng 7-1965. Về sau những người kế nhiệm
Trưởng J2-MACV đều mang cấp Thiếu Tướng: Thiếu Tướng Philip B.
Davisdon và Thiếu Tướng William E. Potts.
Cả 3
vị Thiếu Tướng vừa nêu tên bên trên tiếp tục mở rộng và phát
triển J2-MACV về cả 2 mặt thu thập và khai thác tin tình báo,
đồng thời phối hợp hoạt động rất chặt chẽ với phía VNCH.
Với
đà phát triển mạnh mẽ đó, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tướng
Joseph A. McChristian, đến giữa năm 1967, J2-MACV đã có tổng số
nhân viên trên 600 người.32 với một cơ cấu tổ chức như trong biểu
đồ sau đây: 33
Thật
ra, số người mà J2-MACV điều động còn cao hơn rất nhiều. Theo
tường trình của chính Thiếu Tướng McChristian, các đơn vị tình
báo thuộc Lục Quân Hoa Kỳ đặt dưới sự điều động của ông vào
tháng 6-1967 đã có tổng số nhân sự từ 102 tăng lên đến 2.466,
và tổng số cố vấn (cho các cơ quan tình báo của VNCH) đã từ
218 tăng lên đến 622. Các đơn vị tình báo thuộc Lục Quân Hoa Kỳ
nói trên bao gồm các đơn vị sau đây: 34
• Ðoàn 525 Quân Báo (525th Military Intelligence Group)
• Ðoàn 149 Quân Báo (149th Military Intelligence Group) có nhiệm vụ Thu Thập tin)
•
Tiểu Ðoàn 1 Quân Báo (1st Military Intelligence Battalion; phụ
trách Yểm Trợ Không Thám = Air Reconnaissance Support) có nhiệm
vụ cung cấp không ảnh cho các đơn vị tác chiến)
•
Tiểu Ðoàn 519 Quân Báo (519th Military Intelligence Battalion) cung
cấp nhân sự và yểm trợ cho các Trung Tâm Hỗn Hợp)
Riêng Ðoàn 525 Quân Báo thì chịu trách nhiệm điều động các đơn vị quân báo sau đây:
• Một đại đội tín hiệu (a signal company) có trách nhiệm chận bắt truyền tin của các đơn vị địch
•
Một phân đội không quân (an aviation detachment) có trách nhiệm
thực hiện và diễn giải các không ảnh về hoạt động của các đơn
vị địch
• Ðoàn 135 Quân
Báo (135th Military Intelligence Group) phụ trách công tác phản
gián, với các tổ phân phối khắp 4 Vùng Chiến Thuật bên cạnh
các tổ của Cục An Ninh Quân Ðội VNCH)
Phối Hợp Công Tác Tình Báo Giữa VNCH và Hoa Kỳ
Vì
khối lượng rất lớn cũng như mức độ phức tạp của tin tức tình
báo (cộng thêm sự khác biệt về ngôn ngữ Anh-Việt), và vì
cùng chiến đấu chống lại một kẻ địch chung, Phòng 2 Bộ TTM
QLVNCH và Ban J2-MACV đã đồng ý thiết lập một số cơ quan và đơn
vị tình báo hỗn hợp để chia sẻ tin tức và phối hợp hoạt
động. Vị sĩ quan QLVNCH đồng nhiệm với Thiếu Tướng McChristian,
Trưởng J2-MACV, là Ðại Tá Hồ Văn Lời, Trưởng Phòng 2 BTTM
QLVNCH. Ðại Tá Hồ Văn Lời, sinh năm 1928 tại Ðịnh Tường, là một
sĩ quan hiện dịch thuộc Bộ Binh, tốt nghiệp Khóa 3 Trường Võ
Bị Liên Quân Ðà Lạt (Khóa Trần Hưng Ðạo, năm 1951).35 Sự thỏa
thuận giữa hai nước đồng minh trong cuộc chiến đưa đến sự hình
thành và hoạt động của 4 Trung Tâm Hỗn Hợp về tình báo: Trung
Tâm Thẩm Vấn Quân Sự Hỗn Hợp (Combined Military Interrogation
Center – CMIC), Trung Tâm Khai Thác Tài Liệu Hỗn Hợp (Combined
Document Exploitation Center – CDEC), Trung Tâm Khai Thác Quân Dụng
Hỗn Hợp (Combined Materiel Exploitation Center – CMEC), và Trung Tâm
Tình Báo Hỗn Hợp Việt Nam (Combined Intelligence Center Vietnam –
CICV).
Trung Tâm Thẩm Vấn Quân Sự Hỗn Hợp
Công
tác thẩm vấn các tù hàng binh và hồi chánh viên được cả 2
phía Việt Mỹ đặt ưu tiên cao trong công tác tình báo hỗn hợp.
Các trung tâm thẩm vấn quân sự được thiết lập tại các quân
đoàn và sư đoàn. Riêng tại các tiểu khu (tỉnh) thì các trung
tâm thẩm vấn được đặt dưới quyền điều khiển CSQG (đơn vị CS
đặc biệt của địa phương), nhưng khi cần thì các đơn vị quân báo
Việt-Mỹ cũng được quyền sử dụng. Trung tâm thẩm vấn hỗn hợp
trung ương (CIMC) được đặt tại Sài Gòn, dưới sự chỉ huy kết
hợp của Trung Tá Frederick A. Pieper, Thiếu Tá Lawrence Sutton và
Ðại Úy Lâm Văn Nghĩa.36
Công
tác thẩm vấn được thực hiện theo những quy định rất chặt chẽ.
Trước tiên là sự phân biệt rõ rệt giữa tù hàng binh và hồi
chánh viên. Hồi chánh viên luôn luôn được đối xử một cách thân
thiện và đặc biệt hơn, với chủ đích tạo cho họ cảm giác ấm
áp, và cho họ thấy rõ là sự “trở về” của họ rất được hoan
ngênh. Trong thời gian thẩm vấn, hồi chánh viên cũng được thoải
mái, có nhiều tự do hơn. Sau khi chấm dứt thẩm vấn, họ được
quyền chọn trung tâm chiêu hồi mà họ muốn về làm việc. Một số
hồi chánh viên quan trọng, như Thượng Tá Tám Hà, Chính Ủy Sư
Ðoàn 5 (Việt cộng), hồi chánh tại Bình Dương năm 1970, hay Trung
Tá Lê Xuân Chuyên, thuộc bộ đội chính quy của Bắc Việt, hồi
chánh tại Bình Tuy năm 1967, đã được chính phủ VNCH cử nhiệm
vào một số chức vụ quan trọng tại Bộ Dân Vận Chiêu Hồi hay
Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị.37
Tuy có
phân biệt đối xử, nhưng về nội dung thẩm vấn thì hoàn toàn
giống nhau đối với tù hàng binh hay hồi chánh viên, với mục
tiêu nhằm khai thác tin tức về 5 lãnh vực sau đây:
• Lực lượng địch bên ngoài lãnh thổ của VNCH, nghĩa là tại Bắc Việt, Miên, và Lào.
• Lực lượng địch bên trong lãnh thổ của VNCH.
• Chiến thuật, vũ khí, quân dụng, hạ tầng cơ sở và các hoạt động tâm lý chiến của địch.
•
Phản gián: các kế hoạch và hoạt động phá hoại, cài người
(nội tuyến) vào các cơ sở của VNCH và các quân đội đồng minh.
• Lộ trình, hành lang, và phương thức xâm nhập từ Miền Bắc.
Các
báo cáo thẩm vấn thực hiện tại các trung tâm thẩm vấn địa
phương phải được đánh giá về mức độ quan trọng của tin tức khai
thác được, và sau đó chuyển về trung ương. Các đối tượng thẩm
vấn cũng phải được xếp hạng về chức vụ của họ trong hệ
thống của địch quân và tầm quan trọng của tin tức mà họ cung
cấp. Tùy theo mức độ quan trọng, đối tượng thẩm vấn sẽ được
bảo vệ và di chuyển nhanh hay chậm về các trung tâm thẩm vấn ở
cấp cao hơn, hay có thể đưa về ngay Trung Tâm Thẩm Vấn Trung Ương
tại Sài Gòn.
Sau khi thẩm vấn hoàn tất, các tù hàng binh sẽ được đưa ra giam giữ tại trại giam trên đảo Phú Quốc.
Trung Tâm Khai Thác Tài Liệu Hỗn Hợp
Tài
liệu thu thập được của địch cũng là một nguồn tin tình báo
rất quan trọng. Cả hai cơ quan quân báo của VNCH (Phòng 2 BTTM)
và Hoa Kỳ (J2-MACV) đã đồng ý thành lập Trung Tâm Khai Thác Tài
Liệu Hỗn Hơp, đặt trụ sở gần căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt và
bắt đầu hoạt động từ ngày 24-10-1966, với trên 300 nhân viên
quân sự và dân sự Việt Mỹ.
Tiến trình khai thác tài liệu của địch gồm các giai đoạn sau đây:
• Phân loại tài liệu
• Ðánh giá tài liệu
• Phiên dịch tài liệu
• Phân phối tài liệu
Trong công tác phân loại, tài liệu của địch được phân ra làm 5 loại như sau:
• Loại
A: cần phải được xử lý ngay lập tức, ví du một bản kế hoạch
của địch nhằm phục kích một đơn vị bạn, với kết quả được
thông báo ngay bằng “đường dây nóng” (hot line) cho đơn vị bạn.
•
Loại B: tài liệu có giá trị tình báo chiến lược, thí dụ như
các giấy ban khen có ghi tên cá nhân và đơn vị phục vụ, hay
các sổ sách ghi chép thành phần, quân số, vị trí đóng quân
của các đơn vị địch; loại tài liệu này sẽ nhanh chóng được
dịch sang tiếng Anh để phổ biến và đánh số tài liệu ngay;
phần lớn tài liệu được xử lý tại Trung Tâm thuộc loại tài
liệu này.
• Loại C: tài
liệu không có giá trị tình báo, thí dụ một tấm bản đồ của
Châu Phi; loại tài liệu này sẽ không được xử lý mà chuyển giao
ngay cho phía VNCH để tùy nghi.
•
Loại D: loại tài liệu tuyên truyền, thí dụ một tờ truyền đơn
kêu gọi lính Mỹ viết thư cho một tổ chức phản chiến chẳng
hạn; loại này bao gồm cả các loại giấy bạc của Bắc Việt;
loại này cũng không được xử lý tại Trung Tâm, tài liệu tuyên
truyền thì được chuyển giao cho các cơ quan chiến tranh tâm lý,
giấy bạc thì chuyển cho các cơ quan thích hợp.
•
Loại E: loại tài liệu về mật mã truyền tin, loại tài liệu
này cũng sẽ không được xử lý tại Trung Tâm mà chuyển giao ngay
cho các cơ quan về SIGINT.
Sau
đó, các tài liệu thuộc 2 loại A và B sẽ được chuyển đến một
nhóm các chuyên viên cao cấp về tài liệu để họ viết ra các
bản tóm lược nội dung cho từng tài liệu. Những tài liệu quá
chi tiết sẽ được chuyển đến Ban Dịch Thuật để được dịch sang
tiếng Anh toàn văn tài liệu.
Trong
suốt thời gian hoạt động, Trung Tâm đã xử lý một số lượng tài
liệu rất lớn, lên đến hàng triệu trang. Xin đơn cử một thí dụ
để minh họa: nội trong 2 tháng đầu năm 1967, với 2 cuộc Hành
Quân lớn của quân đôi Mỹ (Cedar Falls, tháng 1-1967, trong Vùng Tam
Giác Sắt; và Junction City, tháng 2-1967, tại Chiến Khu C ở Tây
Ninh), gần một triệu trang tài liệu tịch thu được của địch đã
được xử lý tại Trung Tâm. Khoảng 10% của tổng số tài liệu này
đã được tóm lược hay chuyển dịch sang tiếng Anh và phân phối
đến các cơ quan và đơn vị.
Với
những trang thiết bị tối tân nhứt của thập niên 1960, trong đó
có cả máy in có thể in đến 6.000 trang một giờ, Trung Tâm đã
có thể cung cấp, ngay từ đầu năm 1967, mỗi ngày 1.400 cân anh
(pounds) tài liệu đã được tóm lược, chuyển dịch và sao chụp.
Tất cả các tài liệu đều được chụp vi phim, làm bảng dẫn
(indexed) và đưa vào một hệ thống máy tính (IBM 1401) đặt tại
Trung Tâm Tình Báo Hỗn Hợp Việt Nam (CICV).38
Trung Tâm Khai Thác Vũ Khí Hỗn Hợp
Ðối
với giới quân sự, thông tin về tất cả các loại quân dụng do
địch quân sử dụng được xem là rất quan trọng và cần thiết.
Trung Tâm Khai Thác Quân Dụng Hỗn Hợp được thành lập để hai quân
đội đồng minh Việt-Mỹ chia sẻ thông tin và kinh nghiệm về vũ
khí của địch.
Trung
Tâm được giao cho nhiệm vụ thu thập và khai thác tất cả các
loại vũ khí và quân dụng của địch. Công tác khai thác bao gồm
các mặt: xem xét (observation), xác định (identification), phân
tích (analysis), và đánh giá (evaluation). Mục tiêu của công tác
khai thác là tìm hiểu cặn kẽ khả năng và giới hạn của vũ khí
– quân dụng, thông báo các thông tin này cho các cơ quan và đơn
vị có liên hệ để tìm biện pháp đối phó.
Trung Tâm được tổ chức với các đơn vị chuyên môn như sau:39
• Ban Hình Ảnh (Graphics Section): thực hiện và cung cấp các ảnh vẽ và hình chụp
•
Phòng Thí Nghiệm (Laboratory): thực hiện các phân tích hóa học
cần thiết để xác định thành phần của các chất lạ
•
Ban Truyền Thông và Ðiện Tử (Communications-Electronics Section):
khai thác tất cả các loại quân dụng có liên hệ đến truyền tin,
nhiếp ảnh, và điện tử
•
Ban Cơ Ðộng (Mobility Section): phân tích và đánh giá tất cả các
loại mìn bẫy cũng như các quân dụng và vật liệu về công binh,
vận tải, và xây dựng
• Ban
Vũ Khí và Ðạn Dược (Weapons and Munitions Section): xem xét
(tháo ra từng mảnh), phân tách và đánh giá tất cả các loại
vũ khí và đạn dược tịch thu được của địch
• Ban Y Khoa (Medical Section): đánh giá các loại tiếp liệu, thiết bị, và khả năng về y khoa của địch
•
Ban Tiếp Liệu và Thiết Bị Tổng Quát (General Supply and
Equipment Section): phân tích và đánh giá các trang phục, vật
dụng cá nhân, lương thực, các sản phẩm về dầu khí, và các
thiết bị hóa học, vi trùng và quang tuyến của địch.
Tất
cả các loại vũ khí – quân dụng tịch thu được của địch từ các
đơn vị chiến đấu đều được chuyển về các cấp lữ đoàn hoặc sư
đoàn và từ đó chuyển về cho Trung Tâm để khai thác, ngoại trừ
các trường hợp cần khai thác ngay tại chổ thì Trung Tâm sẽ
gửi các toán cơ động (“Go” Teams) đến để thực hiện công tác
này.
Trung Tâm Tình Báo Hỗn Hợp Việt Nam
Cả 3
Trung Tâm vừa kể trên đều có một mục tiêu chung là tạo ra một
cơ sở dữ liệu trung ương (centralized database), tối cần thiết cho
hoạt động hữu hiệu của Trung Tâm Tình Báo Hỗn Hợp Việt Nam
(CICV).
Tòa
nhà dành cho Trung Tâm được khánh thành ngày 17-1-1967 và Trung
Tâm được đặt dưới sự chỉ huy của Ðại Tá Frank I. Schaf, Jr. và
Thiếu Tá Cao Minh Tiếp, về nhân sự gồm có tất cả 651 nhân viên
Mỹ và 164 nhân viên Việt, với sơ đồ tổ chức như sau:40
Trung
Tâm hoạt động 24 giờ mỗi ngày với các ca nhân viên luân phiên
nhau. Mục tiêu của Trung Tâm là tập hợp, biên soạn và cung cấp
tin tình báo về mọi lãnh vực (quân số, diện địa, không ảnh,
mục tiêu, vv.) cho các Ban 2 (Tình Báo) của tất cả các đơn vị
tác chiến Việt-Mỹ từ cấp Quân đoàn xuống đến cấp Tiểu đoàn.
Với
một lực lượng nhân viên đông đảo như vậy, cộng thêm một cơ sở dữ
liệu trung ương được tự động hóa (của Bộ Phận Xử Lý Ðiện
Tử, sử dụng máy tính tối tân nhứt của thời đó là máy INM
360-30) và chứa đựng các thông tin về mọi lãnh vực đã được thu
thập từ những Trung Tâm Hỗn Hợp kể trên và đã được các chuyên
viên phân tích và đánh giá, CICV đã có thể hoạt động với
hiệu quả cao trong việc cung cấp một cách nhanh chóng và kịp
thời tất cả các loại tin tức tình báo cần thiết cho các cơ
quan an ninh cũng như các đơn vị tác chiến.
Hệ Thống Tình Báo Của Phe Cộng Sản
Trong
thời gian chiến tranh Việt Nam, tại Bắc Việt, cơ quan tình báo
chiến lược là Cục Tình Báo thuộc Bộ Tổng Tham Mưu của Quân
Ðội Nhân Dân Việt Nam. Cục Tình Báo, hay còn gọi là Cục 2,
được thành lập ngày 10-6-1957 do việc hợp nhất 2 cơ quan là Nha
Liên Lạc (thuộc Phủ Thủ Tướng, Giám Ðốc là ông Trần Hiệu) và
Cục Quân Báo (Bộ Quốc Phòng), và vị Cục Trưởng đầu tiên cũng
chính là ông Trần Hiệu (năm 1958, ông Trần Hiệu được phong quân
hàm Ðại Tá).41,42 Về phía dân sự, sau sự hợp nhất này, Bắc
Việt không còn có một cơ quan trung ương về tình báo nữa. Công
tác tình báo dân sự được giao cho Bộ Công An với mạng lưới nhân
viên dày đặc từ trung ương xuống đến tận các đơn vị cấp nhỏ
nhất tại địa phương như Phường, Khóm, Xã, Ấp. Chính nhờ mạng
lưới này, Bắc Việt đã ngăn chận được sự xâm nhập của các
toán điệp viên của VNCH được gửi ra từ Miền Nam.
Cục 2
có đầy đủ các Phòng, Ban chuyên môn phụ trách tất cả các lãnh
vực chuyên môn về tình báo như thu thập tin (bao gồm cà tình
báo nhân sự –HUMINT—và tình báo tín hiệu –SIGINT–, phân tích và
đánh giá tin, truyền và thông báo tin, và cả phản gián.
Cụ thể, Cục 2 gồm có tất cả 6 Khối với trách nhiệm như sau: 43
• Khối Hành Chánh: lo về nhân viên, lý lịch, thăng thưởng, kỷ luật, vv
•
Khối Kỹ Thuật: thu thập tất cả các loại tài liệu của VNCH
như giấy căn cước, con dấu, chữ ký để làm căn cước giả, cũng
như cung cấp mọi vật liệu và máy móc cần thiết cho các điệp
viên xâm nhập vào Miền Nam
•
Khối Truyền Tin: điều hành các hệ thống truyền tin giữa Cục 2
với các đơn vị phụ thuộc, với các cơ quan tình báo chiến
lược khác, và với các điệp viên do Cục 2 điều động ở Miền Nam
•
Khối Huấn Luyện: phụ trách huấn luyện nhân viên trong nước
cũng như gửi đi học tại Liên Xô và Trung Quốc từ 6 tháng đến 2
năm
• Khối Bảo Vệ: lo mảng
công tác phản gián, theo dõi các đối tượng tình nghi phản
động, và ngăn chận người của VNCH xâm nhập và phá hoại
•
Khối Thu Thập: được tổ chức thành nhiều Ban; mỗi Ban chịu
trách nhiệm thu thập tin tại một quân khu ở Miền Bắc; đặc biệt
3 Ban quan trọng nhứt chịu trách nhiệm tại 3 vùng Chiến trường
C (VNCH), B (Lào), và C (Kampuchia); có cả 1 Ban chịu trách
nhiệm về Hoa Kỳ
Tại
Miền Nam, vì Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (hay Việt
Cộng) chỉ là một công cụ của Bắc Việt, mọi việc quan trọng
về chính trị và quân sự đều do Trung Ương Cục Miền Nam quyết
định. Trung Ương Cục Miền Nam (sau đây sẽ viết tắt là TUC; tài
liệu của Mỹ thường gọi là COSVN = Central Office for South
Vietnam) là cơ quan do Ðảng Lao Ðộng Việt Nam (tức Ðảng Cộng sản
Việt Nam tạm thời đổi tên vào năm 1951) thành lập năm 1961 để
thay cho Xứ Ủy Nam Bộ, với nhiệm vụ tiến hành cuộc nổi dậy
tại Miền Nam với các Bí Thư liên tiếp sau đây: Nguyễn Văn Linh
(1961-1964), Nguyễn Chí Thanh (1964-1967), và Phạm Hùng
(1967-1975), tất cả đều là Ủy Viên Bộ Chính Trị của Ðảng Lao
Ðộng Việt Nam.
Về
mặt công tác tình báo, TUC, thật ra, chỉ chịu trách nhiệm trong
phạm vi lãnh thổ của Vùng III và Vùng IV của VNCH mà thôi
(tức là 3 Quân Khu 7, 8, và 9 của Việt Cộng). Công tác tình báo
tại các phần lãnh thổ còn lại của VNCH (tức là Vùng I và
Vùng II) vẫn thuộc sự điều khiển của Bộ Tổng Tham Mưu, Quân
Ðội Nhân Dân Việt Nam (xuyên qua Cục Tình Báo, tức là Cục 2). Do
đó, hệ thống tổ chức tình báo của phe Cộng sản có sơ đồ tổ
chức như sau: 44
Ghi chú:
• Chiến trường B3 là mật ngữ của phe Cộng sản dùng để chỉ vùng Cao Nguyên Trung Phần của VNCH
• Quân Khu T.Thiên-Huế: gồm các tỉnh Quảng Trị, ThừaThiên và Thành phố Huế
•
Quân Khu 5: gồm các tỉnh duyên hải Trung và Nam Trung Phần là
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, Phú Yên và Khánh Hòa
•
Quân Khu 6: gồm các tỉnh duyên hải Nam Trung Phần là Ninh Thuận,
Bình Thuận, Bình Tuy và các tỉnh phía Nam Cao Nguyên Trung Phần
là Darlac, Quảng Ðức, Tuyên Ðức và Lâm Ðồng
• Quân Khu 7: gồm các tỉnh Miền Ðông Nam Bộ
• Quân Khu 8: gồm các tỉnh Tiền Giang
• Quân Khu 9: gồm các tỉnh Hậu Giang, Miền Tây Nam Bộ
Với
hệ thống tổ chức như trong sơ đồ bên trên, việc cung cấp tin tức
tình báo cho các sư đoàn Bắc Việt đã xâm nhập vào Miền Nam và
hoạt động trong Vùng I và Vùng II Chiến Thuật của VNCH hoàn
toàn do Cục 2 đảm trách.
Trong
khu vực trách nhiệm của mình, tức là 2 Vùng III và Vùng IV
của VNCH, TUC có một bộ phận chuyên lo công tác an ninh và tình
báo gọi là Cục An Ninh gồm có 3 bộ phận với các nhiệm vụ
chính như sau: 45
• Ban
Nội thám: với bí danh K-35, có nhiệm vụ duy trì và bảo vệ an
ninh cho mật khu; có quyền theo dõi, bắt giam, hỏi cung, điều
tra, giam giữ cán bộ chiến sĩ và thường dân; ngăn chận sự xâm
nhập của các điệp viên của VNCH
•
Ban Ngoại thám: có nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo qua hệ
thống điệp viên và nội tuyến; cung cấp tất cả những dụng cụ,
vũ khí cần thiết cho các điệp viên và nội tuyến
•
Ban Bảo vệ: bảo vệ yếu nhân, lãnh tụ của TUC và Mặt Trận;
đơn vị được chỉ định làm công tác này là Trung Đoàn Bảo Vệ
180 gồm 2 Tiểu Ðoàn D-1 và D-2; D-1 phụ trách bảo vệ lãnh tụ
và cơ sở; D-2 phụ trách bảo vệ ngoại vi.
Ngoài
các tổ chức, cơ quan, đơn vị chính thức như vừa trình bày bên
trên, phe Cộng sản còn có được tai mắt trong dân chúng qua cái
gọi là “hệ thống tình báo nhân dân” ở khắp nơi trong lãnh thổ của VNCH, điều mà VNCH không làm được tại Miền Bắc.
Hoạt Ðộng Xâm Nhập Của Hai Bên
Ngoài
các hoạt động công khai của các cơ quan tình báo vừa kể trên,
cả VNCH và Bắc Việt đều có thực hiện một số điệp vụ bí mật
qua các công tác gửi người, cài người, kể cả trường kỳ mai
phục, vào lãnh thổ, cơ quan, tổ chức của cả hai bên.
VNCH Gửi Kiệt Kích Xâm Nhập Bắc Việt
Trong
thời gian 300 ngày chuyển tiếp của việc thi hành Hiệp Ðịnh
Genève 1954, một tổ CIA, dưới sự chỉ huy của Ðại Tá Edward
Lansdale, đã tuyển mộ (từ các đảng viên của 2 chính đảng có
chủ trương chống Cộng sản là Ðại Việt và Quốc Dân Ðảng), huấn
luyện và gài đặt lại một số tổ tình báo ở Miền Bắc. Kế
hoạch “trường kỳ mai phục” này của CIA tương đối thành
công vì lúc đó Bắc Việt chưa kiện toàn bộ máy an ninh của họ.
Các tổ tình báo này hoạt động được hơn một thập niên nhưng
sau cùng cũng bị lộ, bị bắt giam, và đưa ra tòa xét xử. Vụ
án xét xử 10 gián điệp (tất cả đều là đảng viên Quốc Dân
Ðảng, với 2 bản án tử hình) tại tòa án Hải Phòng vào tháng
4-1965 đã làm chấn động Miền Bắc, như chúng ta thấy trong hình
sau đây: 46
Tòa Án Hải Phòng Xét Xử Vụ Án Gián Ðiệp Tháng 4-1965
(Xuất xứ của ảnh: Lấy từ sách “Spies and Commandos,” tr. 13)
Trong
thập niên 1960, VNCH, với sự yểm trợ tích cực về tài chánh và
kỹ thuật của CIA, đã gửi nhiều điệp viên và các toán biệt
kích ra Miền Bắc với mục đích thực hiện một số công tác về
thu thập tin tức, tuyển mộ điệp viên, và phá hoại. Cơ quan của
VNCH hợp tác với CIA trong kế hoạch này là một đơn vị tình
báo lúc đầu trực thuộc Phủ Tổng Thống dưới quyền chỉ huy của
Trung Tá Lê Quang Tung (sau thăng lên cấp Ðại Tá, Chỉ Huy Trưởng
Lực Lượng Ðặc Biệt), với tên gọi thay đổi nhiều lần: Phòng
Liên Lạc Phủ Tổng Thống, Phòng 45, Sở Bắc, Sở Khai Thác Ðịa
Hình. Sau cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963, Sở Khai Thác Ðịa Hình
bị giải tán, và ngày 12-2-1965, Nha Kỹ Thuật được thành lập
để đảm nhận công tác tình báo này và được đặt trực thuộc Bộ
Tổng Tham Mưu QLVNCH.
Lúc
đầu, kế hoạch này chỉ gửi từng điệp viên đơn độc ra nằm vùng
tại Miền Bắc (trong ngữ vựng của CIA gọi là các “singletons”).
Ðiệp viên đầu tiên được gửi ra Miền Bắc trong kế hoạch này là
Phạm Chuyên, một cựu đảng viên Cộng Sản của tỉnh bộ Quảng
Ninh, đã từ bỏ đảng và di cư vào Nam. Chuyên được huấn luyện
rất kỹ trong hơn 1 năm và sau đó được bí mật đưa ra ém ở Cẩm
Phả, trong vùng Vịnh Hạ Long, vào tháng 4-1961, với bí danh là
ARES. Nhưng chỉ được hơn 2 tháng thì ARES đã bị bắt. ARES đã
hàng địch, trở thành công cụ của địch, và gửi nhiều điện văn
về để lừa CIA. Lúc đó CIA vẫn chưa biết sự phản bội của ARES,
vẫn tiếp tục chương trình ”singletons” này. Kết quả là, cũng
giống như ARES, các “singletons” kế tiếp, với các bí danh
HIRONDELLE, HERO, TRITON, ATHENA, đều “biến mất” hết một cách bí
mật. Sang năm 1962, tuy vẫn chưa nghi ngờ ARES, CIA đã bắt đầu
không còn tin tưởng vào hiệu quả của chương trình “singletons”
nữa và bắt đầu chuyển sang chương trình cho các toán biệt
kích, từ 3 đến 8 người, nhảy dù xuống Miền Bắc. Riêng về
“singleton” ARES, thì từ 1966 CIA đã bắt đầu nghi ngờ và khi họ
bố trí cho ARES “trở ra” (exfiltrate) thì ARES không làm theo chỉ
thị; lúc đó CIA mới biết chắc ARES đã trở thành công cụ của
tình báo BẮc Việt và chấm dứt liên hệ với ARES. Tuy nhiên tình
báo Bắc Việt vẫn tiếp tục sử dụng ARES và ARES vẫn tiếp tục
gừi điện về cho mãi đến tận năm 1968.47
Chương
trình đưa biệt kích ra Miền Bắc chính thức bắt đầu bằng NSAM
28 (NSAM = National Security Action Memorandum No. 28, ngày 9-3-1961),
theo đó Tổng Thống John F. Kennedy (1961-1963) ra chỉ thị cho CIA
phát động chiến tranh du kích tại Miền Bắc. Trong tháng 4-1961
xảy ra vụ đổ bộ tại Vịnh Con Heo (Bay of Pigs) ở Cuba do CIA tổ
chức bị thất bại nặng nề, Tổng Thống Kennedy mất tin tưởng
vào khả năng tổ chức những công tác bán quân sự bí mật của
CIA. Cuối tháng 6-1961, một loạt NSAM ra đời (NSAM 55, 56 và 57,
cùng ngày 28-6-1961) nhằm chuyển giao loại công tác đó qua cho
Bộ Quốc Phòng, với CIA trong vai trò yểm trợ mà thôi.
CIA,
thật ra, đã chuẩn bị từ trước. Họ đã tuyển người (tất cả
đều là người gốc Miền Bắc), huấn luyện (tại căn cứ huấn
luyện ở Long Thành, về sau trở thành Trung Tâm Huấn Luyện Quyết
Thắng) và chuẩn bị cho chuyến xuất phát đầu tiên vào ngày
27-5-1961. Toán biệt kích gồm 4 người này được đặt bí danh là
CASTOR, với người chỉ huy là Trung sĩ Hà Văn Chấp, cùng 3 toán
viên là Ðinh Văn, Quách Thưởng và Phạm Công Thương,48được thả
xuống vùng đồi 828, thuộc tỉnh Sơn La. Người phi công lái chiếc
máy bay C-47 chở toán CASTOR đó chính là Tướng Nguyễn Cao Kỳ
(lúc đó ông còn mang lon Thiếu Tá và là Chỉ Huy Trưởng Liên
Ðoàn Vận Tải của Không Quân VNCH). Toán CASTOR không tồn tại
được lâu, họ bị Công An Vũ Trang của Bắc Việt phát hiện, bao
vây và đã phải đầu hàng sau 3 ngày. Cũng như với vụ ARES, Bắc
Việt cũng giữ kín vụ bắt được toán CASTOR. CIA hoàn toàn không
nghi ngờ gì cả và tiếp tục gửi toán thứ nhì gồm 3 người
với bí danh là ECHO vào ngày 2-6-1961. Còn tệ hơn toán CASTOR,
cả toán ECHO 3 người này đều bị bắt vào ngay hôm sau. CIA không
biết là toán ECHO đã bị địch bắt và 12 ngày sau lại gửi toán
thứ ba, bí danh DIDO, gồm 4 người thuộc sắc dân thiểu số Thái
Ðen, vào Lai Châu. Lần này, phi công của chiếc máy may C-47 vẫn
là Thiếu Tá Nguyễn Cao Kỳ. Toán DIDO cũng không may mắn hơn
toán ECHO. Họ bị bắt hết tại biên giới Việt-Lào vào khoảng 10
ngày sau. Khoảng hơn một tháng sau ngày toán CASTOR nhảy xuống
Sơn La, ngày 29-6-1961, đài tiếp vận BUGS của CIA ở Phi Luật Tân
nhận được điện của CASTOR. Không biết CASTOR đã bị bắt và hàng
địch, CIA rất vui mừng và thông báo cho CASTOR biết 4 ngày sau
sẽ gửi đồ tiếp tế cho CASTOR. Theo kế hoạch, chuyến bay này sẽ
lại do Thiếu Tá Nguyễn Cao Kỳ điều khiển nhưng vào giờ chót
đã có sự thay đổi và phi công là Trung Úy Phan Thanh Vân. Chiếc
C-47 này đã bị đơn vị phòng không của Bắc Việt bắn hạ khi bay
ngang không phận của Hòn Né, gần bờ biển của tỉnh Ninh Bình,
và rớt trong một khu đồn điền cách bờ biển khoảng 20 km. Tất
cả phi hành đoàn đều bị thương, sau đó có 4 người chết vì vết
thương quá năng, 3 người còn sống bị đưa ra tòa xét xử vào
tháng 11-1961. Ðể tiếp tục đánh lừa CIA và cơ quan tình báo
của VNCH về CASTOR, Bắc Việt đã dàn cảnh cho 3 người này khai
trước tòa là phi vụ của họ là để tiếp tế cho 1 toán biệt
kích trong vùng tỉnh Hòa Bình (chớ không phải cho toán CASTOR ở
Sơn La). Phòng 45 của Trung Tá Lê Quang Tung và CIA tin là toán
CASTOR vẫn còn là phe ta, chương trình cài biệt kích này đã
thành công nên lại tiếp tục gửi các toán biệt kích ra Bắc.
Toán biệt kích kế tiếp mang bí danh là EUROPA và gồm 5 người
gốc Mường. Lần này, phi cơ được sử dụng là loại C-54, phi công
vẫn là ông Kỳ lúc này đã thăng lên cấp Trung Tá. Chiếc C-54
này bay thẳng từ Sài Gòn (không cần phải ghé để được tiếp
nhiên liệu như chiếc C-47 của các lần trước) ra Bắc và thả
toán EUROPA xuống vùng Hòa Bình. Ngày hôm sau cả toán EUROPA 5
người Mường này đều bị bắt. Lại dùng phương thức cũ, tình
báo Bắc Việt lại để cho người của toán EUROPA gửi điện về.
CIA và Phòng 45 lại tin là thêm một phi vụ thành công
nữa.49 Việc đưa biệt kích ra Bắc lại được CIA tiếp tục với
các toán ATLAS (tháng 3-1962), REMUS (tháng 4-1962), TOURBILLON
(tháng 5-1962), và EROS (tháng 6-1962), và, cũng như các toán
trước, các toán này đều bị Công An Vũ Trang của Miền Bắc phát
hiện, truy lùng và bắt giữ hết.
Kể từ
mùa Hè năm 1962, thực thi các NSAM 55, 56 và 57, Chính phủ Hoa
Kỳ giao lại công tác này cho Bộ Quốc Phòng, và CIA chỉ còn
giữ vai trò yểm trợ mà thôi. Phái bộ quân sự Mỹ tại VN, MACV
(thành lập ngày 8-2-1962 thay thế cho MAAG = Military Assistance
Advisory Group) cho thành lập đơn vị SOG (lúc đầu mang tên là
Special Operations Group, sau đổi tên lại là Studies and Observations
Group). Thành viên của SOG hoàn toàn là người tình nguyện,
phần lớn thuộc Lực Lượng Ðặc Biệt của quân đội Mỹ. Trong thời
gian 1962-1963, VNCH trải qua nhiều xáo trộn chính trị nghiêm
trọng. Vì những xáo trộn chính trị này của VNCH, nên mãi đến
tháng 4-1964, SOG mới triển khai hoạt động với các đơn vị của
cơ quan tình báo mới của QLVNCH là Nha Kỹ Thuật thuộc Bộ Tổng
Tham Mưu.
Vào
đầu năm 1963, Sở Khai Thác Ðịa Hình được cải danh thành Bộ Tư
Lệnh Lực Lượng Ðặc Biệt (LLÐB) và vẫn do Ðại Tá Lê Quang Tung
chỉ huy. Sau cuộc đảo chánh 1-11-1963, Lực Lượng Ðặc Biệt không
còn đảm nhận công tác tình báo nữa. Sở Bắc (Phòng 45 đổi tên)
được tách ra khỏi LLÐB, và cải danh thành Sở Khai Thác và
trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu (BTTM). Sau đó Sở Khai Thác được
đổi tên một lần nữa thành Sở Kỹ Thuật, và ngày 12-2-1965 được
nâng cấp lên thành Nha Kỹ Thuật thuộc BTTM,50 với sơ đồ tổ
chức như sau:
(Sơ đồ
tổ chức này được trình bày dựa trên thông tin lấy ra từ tài
liệu trực tuyến Nha Kỹ Thuật, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại địa chỉ Internet ) Các công tác của Nha Kỹ Thuật được phân chia cho các cơn vị trực thuộc như sau:
•
Sở Công Tác: đóng tại Sơn Trà, Ðà Nẵng; nhiệm vụ của các
Ðoàn thuộc Sở này là xâm nhập bằng đường hàng không hay đường
bộ vào lòng địch tại Miền Bắc hay các vùng biên giới với Lào
và Kampuchia.
• Sở Liên
Lạc: đóng tại Sài Gòn; nhiệm vụ của các Chiến Ðoàn (Biệt
Kích Lôi Hổ) thuộc Sở này là xâm nhập vào hậu tuyến của địch
trong lãnh thổ của VNCH từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam
•
Sở Phòng Vệ Duyên Hải: đóng tại Tiên Sa, Ðà Nẵng; Lực Lượng
Hải Tuần có trách nhiệm tuần tra, bảo vệ bờ biển, chận bắt
tàu bè của địch xâm nhập vùng biển của VNCH; Lực Lượng Biệt
Hải có nhiệm vụ huấn luyện và đưa người nhái xâm nhập Miền
Bắc với phương tiện của Hải Tuần
• Sở Tâm Lý Chiến: đóng tại Sài Gòn; với nhiệm vụ tổ chức và điều hành hai đài phát thanh Tiếng Nói Tự Do và Gươm Thiêng Ái Quốc hướng về Miền Bắc.
•
Sở Không Yểm: đóng tại Sài Gòn; có nhiệm vụ phối hợp các
phi đoàn của Không Quân VNCH trong việc thả, rút, liên lạc và
hướng dẫn các toán kiệt kích xâm nhập Miền Bắc và hậu phương
địch.
• Trung Tâm Huấn Luyện Quyết Thắng: đóng tại Long Thành; có nhiệm vụ huấn luyện cho các toán biệt kích.
Sự
thành lập Nha Kỹ Thuật của BTTM với đầy đủ tất cả các đơn
vị và phương tiện cần thiết cho việc xâm nhập Miền Bắc, với
sự yểm trợ tích cực của SOG về phía Hoa Kỳ, thật ra không cải
thiện được hiệu quả của công tác này.
Ngay
từ cuối năm 1963, vào ngày 20 tháng 11, một cuộc họp hết sức
quan trọng đã diễn ra tại Honolulu, Hawaii, với các giới chức
cao cấp nhứt của chính phủ Mỹ, gồm Bộ Trưởng Quốc Phòng
Robert S. McNamara, Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Rusk, Thứ Trưởng
Ngoại Giao George Ball, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống
Kennedy McGeorge Bundy, Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Thái
Bình Dương (CINCPAC = Commander-In-Chief, Pacific) Ðô Ðốc Harry D.
Felt, Giám Ðốc CIA John McCone, Ðại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Henry
Cabot Lodge và Tư Lệnh MACV Ðại Tướng Paul Harkins. Cuộc họp có
mục đích thảo luận về việc chuyển giao công tác xâm nhập người
của VNCH ra Miền Bắc từ CIA sang cho MACV-SOG. William Colby, cựu
Trưởng Trạm CIA tại Sài Gòn, người từng chủ trương, cổ vũ, và
đích thân thực hiện công tác này tại VNCH, lúc đó đã thăng
cấp và đảm nhiệm chức vụ Trưởng Phân Bộ Viễn Ðông (Far Eastern
Division Chief) của CIA, đã được Giám Ðốc CIA McCone chỉ định
thuyết trình về công tác gửi người xâm nhập Miền Bắc. Ông đã
tỏ ra rất bi quan khi ông cho biết phần lớn các toán biệt kích
gửi ra Miền Bắc đều “đã bị bắt hay đã bị giết chết.” Trong phần kết luận, ông nói trắng ra như sau: “It isn’t working, and it won’t work any better with the military in charge.” (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Chuyện đó không làm được, và cũng sẽ không làm được gì khá hơn với quân đội lãnh trách nhiệm”).51
Dĩ
nhiên, lời cảnh báo này của Colby không được nghe theo và SOG
cùng với các đơn vị của Nha Kỹ Thuật thuộc BTTM QLVNCH vẫn
tiếp tục việc gửi các toán biệt kích xâm nhập ra Miền Bắc,
với kết quả là “đem con bỏ chợ.” Tất cả biệt kích
đều bị bắt, bị tra tấn tàn bạo, và bị giam cầm trong các
trại lao cải ở Miền Bắc trong hàng chục năm trời. Gia đình của
một số biệt kích quân được báo tin là họ đã tử trận, một
số được lãnh tiền bồi thường tử tuất. CIA và quân đội Mỹ đã
hoàn toàn bỏ rơi họ. Dân quân VNCH hoàn toàn không biết gì hết
về số phận của những người lính biệt kích này. Mãi đến sau
năm 1975, khi một số sĩ quan QLVNCH đi học tập cải tạo ở Miền
Bắc được thả về, kể lại chuyện được gặp các biệt kích quân
đó trong các trại cải tạo, dân chúng Miền Nam mới có những
thông tin đầu tiên về số phận của các biệt kích quân này.
Chương
trình gửi người xâm nhập Miền Bắc để thực hiện các công tác
tình báo của VNCH, trong một thời gian khá dài, với những chi
phí rất tốn kém, đã thất bại hoàn toàn. Có 2 lý do chính cho
sự thất bại này: 1) VNCH không có được một hạ tầng cơ sở tại
Miền Bắc để hỗ trợ cho loại công tác này; và, 2) Hệ thống an
ninh của Miền Bắc quá chặt chẽ khiến cho các biệt kích rất
dễ bị phát hiện, truy lùng và bắt giữ.
Miền Bắc Cài Người Hoạt Ðộng Tại Miền Nam
So
với VNCH, Miền Bắc có nhiều thuận lợi hơn trong việc cài
người ở Miền Nam. Có 2 lý do chính cho việc này: 1) Trong thời
gian kháng chiến chống Pháp, 1945-1954, Việt Minh nắm trọn quyền
điều khiển Kháng Chiến; đảng viên Cộng sản có mặt khắp nơi
trong Miền Nam; khi Hiệp Ðịnh Genève được ký kết, trong việc
tập kết quân đội tại Miền Nam để chuyển ra Bắc, một số khá
lớn đảng viên Cộng sản đã nhận được lệnh ở lại Miền Nam; và
2) Phong trào di cư của người Bắc vào Nam trong thời gian 100
ngày sau khi Hiệp Ðịnh Genève được ký kết vào tháng 7-1954 tạo
cơ hội quá tốt cho Hà Nội cài người. Ðó là nguồn nhân lực
rất quan trọng cho Cộng sản sử dụng trong việc cài người trong
dân chúng cũng như bộ máy chính quyền (cả chính trị và quân
sự) của VNCH. Phần lớn những người này đã có mặt, sinh sống,
và làm việc như mọi người dân khác của Miền Nam, ngay cả trước
khi VNCH được thành lập, nên họ đều có một vỏ bọc rất tốt,
giúp họ dễ dàng xâm nhập, len lỏi, và “chui sâu, trèo cao”
trong guồng máy chánh trị và quân sự của VNCH. Sau đây là một
vài nhận vật thật nổi tiếng trong số những người này.
Trong
số những người theo Việt Minh kháng chiến chống Pháp nhưng đã
không tập kết ra Bắc mà ở lại Miền Nam nổi tiếng nhất là
Phạm Ngọc Thảo.52 Trong thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, ông đã xâm nhập
được vào quân đội Miền Nam, được chế độ Ngô Ðình Diệm tin
dùng và bổ nhiệm vào chức vụ Tỉnh Trưởng tỉnh Kiến Hòa (Bến
Tre) lúc ông đang mang cấp Trung Tá. Sau tháng 11-1963, ông thăng
lên cấp Ðại Tá và đã tham gia vào cuộc đảo chánh ngày
19-2-1965 chống Tướng Nguyễn Khánh nhưng thất bại vì sự chống
đối của các tướng trẻ. Sau vụ này ông bỏ trốn nhưng bị bắt
và bị giết chết. Mãi đến năm 1987, phe Cộng Sản mới công khai
xác nhận ông Thảo là người của họ, truy tặng ông cấp bậc Ðại
Tá của Quân Ðội Nhân Dân và danh hiệu Anh Hùng Lực Lượng Vũ
Trang Nhân Dân.
Phạm Ngọc Thảo-1965
Trong
số những người Cộng sản lợi dụng phong trào di cư năm 1954 để
vào Nam hoạt động nổi tiếng nhất phải kể đến Vũ Ngọc Nhạ,
đảng viên Cộng sản từ năm 1947. Tên thật là Vũ Xuân Nhã, sinh
ngày 30-3-1928 tại Thái Bình, Bắc Việt, xuất thân từ một gia
đình theo Công giáo, sinh sống trong vùng Phát Diệm nổi tiếng
chống Cộng dưới sự lãnh đạo của Giám Mục Lê Hữu Từ, bản thân
có theo học mấy năm ở một chủng viện, và đã theo làn sóng
người Công giáo di cư vào Nam sau Hiệp Ðịnh Genève 1954, và sau
đó lại được Linh Mục Hoàng Quỳnh đỡ đầu, Vũ Ngọc Nhạ đã
thoát được không bị kết án sau khi bị Ðoàn Công Tác Ðặc Biệt
Miền Trung của Ngô Ðình Cẩn phát hiện và bắt giam tại Huế vào
tháng 12-1958. Một thời gian sau, cũng lại với cái vỏ bọc Công
giáo đó, cùng với bài viết vào cuối năm 1959 “Bốn nguy cơ đe
dọa chế độ” dự đoán sẽ có đảo chánh và sau đó có đảo chánh
xảy ra thật sự vào ngày 11-11-1960, Nhạ đã được Ngô Ðình Cẩn
tin dùng và sau đó giới thiệu cho hai người anh là Tổng Thống
Ngô Ðình Diệm và Cố Vấn Ngô Ðình Nhu. Nhạ được hai anh em họ
Ngô giao cho nhiệm vụ liên lạc với khối Công giáo di cư nhưng chưa
lập được thành tích gì thì chế độ nhà Ngô sụp đổ. Sau đảo
chánh 1-11-1963, Nhạ tiếp tục làm việc với cha Hoàng Quỳnh, và
sau đó được cha Hoàng Quỳnh giới thiệu với Trung Tướng Nguyễn
Văn Thiệu. Nhạ lại được Tướng Thiệu sử dụng trong việc móc
nối với khối Công giáo. Khi Tướng Thiệu trở thành Tổng Thống,
Nhạ thường được Tổng Thống Thiệu tham khảo về một số vấn đề
chính trị có liên quan đến khối Công giáo. Nhạ được lệnh của
Hà Nội tổ chức 1 cụm tình báo chiến lược với bí danh A-22,
trong đó có Huỳnh Văn Trọng, lúc đó chính thức là Cố Vấn của
Tổng Thống Thiệu. Cụm A-22 gồm một số những người đã từng
bị Ðoàn Công Tác Ðặc Biệt Miền Trung phát hiện và giam giữ
tại Huế. Ðây là một sơ hở của Nhạ khiến cho CIA phát hiện
được cụm A-22 và lập hồ sơ chuyển giao cho Tổng Nha Cảnh Sát
Quốc Gia Việt Nam. Giữa tháng 7-1969, tất cả 42 người hoạt động
cho Cụm A-22 đều bị bắt và đưa ra toà xét xử vào tháng
11-1969. Ðây là một vụ án gián điệp rất nghiêm trọng gây chấn
động trong chính trường của VNCH vì các bị cáo đều là người
có chức vụ khá cao trong chính phủ như sau:
• Vũ Ngọc Nhạ: “cố vấn” bán chính thức của Tổng Thống Thiệu
• Huỳnh Văn Trọng: cố vấn về đối ngoại của Tổng Thống Thiệu
• Vũ Hữu Ruật: Tổng Thư Ký của Ðảng Dân Chủ, Thành bộ Sài Gòn
• Lê Hữu Thúy: Công Cán Ủy Viên Bộ Thông Tin – Chiêu Hồi
• Nguyễn Xuân Hòe, Công Cán Ủy Viên Phủ Tổng Thống
• Hoàng Hồ, Dân Biểu Quốc Hội (đã bỏ trốn; sau đó Quốc Hội đã bỏ phiếu truất quyền)
Huỳnh Văn Trọng ( giữa ) và Vũ Ngọc Nhạ đùa vui sau khi lãnh án 20 năm
Vũ
Ngọc Nhạ bị kết án tù chung thân và đưa ra Côn Ðảo. Năm 1973,
sau Hiệp Ðịnh Paris, Nhạ được trao trả cho Cộng sản. Sau năm
1975, Nhạ công tác tại Cục 2 (cơ quan phụ trách tình báo của
Việt Nam) với cấp bậc Thượng Tá và sau đó thăng lên Ðại Tá.
Năm 1988, Nhạ được thăng cấp Thiếu Tướng. Nhạ mất ngày 7-8-2002
tại Thành phố Hồ Chí Minh.53
Nhà báo Phạm Xuân Ẩn
Người
điệp viên nổi tiếng nhất của Miền Bắc hoạt động tại Miền Nam
là Phạm Xuân Ần. Khác với Phạm Ngọc Thảo và Vũ Ngọc Nhạ, Ần
đã tạo được kỳ tích là hoạt động trong suốt mấy chục năm mà
hoàn toàn không bị phát hiện hay tạo ra nghi ngờ gì cả trong
giới tình báo Hoa Kỳ và VNCH. Ần sinh ngày 12-9-1927 tại Biên
Hòa, học tiểu học tại Trường Tiểu học Marc Ferrando ở Sài
Gòn, học trung học ở Cần Thơ. Năm 1954 ông bị động viên và làm
việc cho quân đội Pháp một thời gian. Ông là điệp viên duy nhứt
của Miền Bắc đã từng du học 2 năm (1957-1959) về ngành báo chí
tại Ðại Học Cộng Ðồng Orange Coast College, thuộc thành phố
Costa Mesa, tiểu bang California, Hoa Kỳ. Nhờ vào đó, ông là một
trong số rất ít người Việt Nam được nhận làm phóng viên cho
các hãng truyền thông Anh Mỹ như Reuters, Time, Christian Science
Monitor. Nhờ vỏ bọc này, Ần đã có giao thiệp rộng rãi với các
nhà báo Mỹ, qua đó tạo được quan hệ rất tốt với nhiều giới
chức Mỹ-Việt, và nhờ vậy đã cung cấp được cho Hà Nội nhiều
tin tức tình báo chiến lược rất quan trọng. Sau năm 1975, ông
được phong Thiếu Tướng, và được ban danh hiệu Anh Hùng Lực
Lượng Vũ Trang Nhân Dân. Ông mất ngày 20-9-2006 tại Thành phố Hồ
Chí Minh.54 Cuộc đời ông đã được ghi lại trong một cuốn sách
thuộc loại bán chạy nhất (Best-seller) tại Hoa Kỳ của tác giả
Giáo sư Chính Trị Học Larry Berman thuộc Ðại Học California,
Davis với nhan đề là: Perfect spy: the incredible double life of Pham
Xuan An, Time Magazine reporter and Vietnamese Communist agent (New
York: Smithsonian Books, 2007; 328 tr.).
Một
điều cũng đáng được lưu ý là cả 3 điệp viên nổi tiếng này
của Miền Bắc, Phạm Ngọc Thảo, Vũ Ngọc Nhạ và Phạm Xuân Ần,
sau khi qua đời, đã được an táng gần nhau trong cùng nghĩa trang
Lạc Cảnh tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài 3
điệp viên nổi tiếng trên mà phần đông mọi người đều có nghe
nói đến, cũng nên kể đến một điệp viên thứ tư, ít người biết,
là điệp viên H3, là một hạ sĩ quan, tên Nguyễn Văn Minh (sinh
năm 1933, tại Hưng Yên, vào Nam sinh sống từ lúc còn nhỏ), làm
việc ngay trong văn phòng của Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham
Mưu Trưởng QLVNCH. Sau năm 1975, H3 được phong quân hàm Ðại Tá, và
ban danh hiệu Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân. (Sẽ đề cập
đến H3 trong phần bên dưới của bài viết).
Nói
chung, nhờ có được nhiều điều kiện thuận lợi hơn, Miền Bắc
tương đối thành công hơn Miền Nam trong việc cài người xâm nhập
vào hệ thống chính trị và quân sự của đối phương.
Tình Báo Trong Một Số Trận Ðánh Quan Trọng
Trong
suốt thời gian khoảng trên dưới 20 năm chiến tranh đó, hệ thống
tình báo của cả 2 phe đã hoạt động rất tích cực và đạt hiệu
quả khá cao nhưng vẫn không tránh khỏi có những thất bại rất
nghiêm trọng. Phần này của bài viết cố gắng tìm hiểu, phân
tích và đánh giá các hoạt động tình báo của cả 2 phe trong 2
trận đánh quan trọng và tiêu biểu của 2 giai đoạn trong Chiến
tranh Việt Nam: 1) Cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân (tháng 2-1968)
của giai đoạn có quân Mỹ tham chiến; và 2) Trận Ban Mê Thuột
(tháng 3-1975) sau Hòa Ðàm Paris và quân Mỹ đã rút khỏi Miền
Nam.
Trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân (Tháng 2-1968)
Trận
Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân bắt đầu vào ngày 31-1-1968 (mùng 2
Tết Mậu Thân) trên khắp các thành phố của VNCH là một bất ngờ
rất lớn trong cuộc chiến tranh vì cả 2 phe lâm chiến đều đã
đồng ý hưu chiến 3 ngày trong thời gian Tết. Phần lớn quân nhân,
công chức của VNCH đều được nghỉ phép để về quê ăn Tết với gia
đình (kể cả Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng về ăn Tết ở quê
vợ là Mỹ Tho). Việc không tiên đoán được cuộc tấn công với quy
mô lớn như vậy của phe Cộng Sản là một thất bại rất lớn về
tình báo của cả VNCH và Hoa Kỳ. Câu hỏi cần phải đặt ra là
tại sao VNCH và Hoa Kỳ, với một hệ thống tình báo to lớn, đầy
đủ và tinh vi như vậy mà không phát hiện được sự chuẩn bị
của phe Cộng sản cho cuộc tổng tấn công này. Ðể có thể trả
lời câu hỏi quan trọng này, chúng ta cần phải tìm hiểu những
diễn biến trong cuộc chiến từ sau khi Hoa Kỳ đưa quân bộ chiến
vào Miền Nam từ tháng 3-1965.
Sau
cuộc đổ bộ của 5.000 Thủy Quân Lục Chiến vào Ðà Nẵng ngày
8-3-1965, quân số Mỹ tại Miền Nam đã gia tăng một cách vô cùng
nhanh chóng: 55
• Cuối năm 1965: tổng số quân Mỹ là184.300
• Cuối năm 1966: tổng số quân Mỹ là 385.300
• Cuối năm 1967: tổng số quân Mỹ là 485.600
Trong mùa khô 1966-1967, trong chiến lược “lùng và diệt địch” (search and destroy)
của Tướng Tư Lệnh MACV Westmoreland, quân đội Mỹ đã tổ chức ít
nhứt là 5 cuộc hành quân lớn (cấp sư đoàn) tấn công vào các
mật khu, căn cứ an toàn, và các trung tâm hậu cần của phe Cộng
sản: 56
• Hành quân Attleboro: tại Dầu Tiếng (Tây Ninh), từ ngày 14-9 đến ngày 24-11-1966
•
Hành quân Paul Revere IV: tại Thung lũng Plei Trap (phía Tây
Pleiku, gần khu vực ba biên giới), từ ngày 20-10 đến ngày
30-12-1966
• Hành quân Thayer II: tại BÌnh Ðịnh, từ ngày 25-10-1966 đến ngày 12-2-1967
• Hành quân Cedar Falls: trong khuTam Giác Sắt (Bến Cát, tỉnh Bình Dương ), từ ngày 8 đến 26-1-1967
•
Hành quân Junction City: trong Chiến Khu C (Tây Ninh, nơi đóng tổng
hành dinh của TUC), từ ngày 22-2 đến ngày 14-5-1967 (đây là
cuộc hành quân trực thăng vận Việt-Mỹ lớn nhứt trong Chiến
tranh Việt Nam, với tổng số 25.000 quân tham chiến)
Các
cuộc hành quân này, cùng với rất nhiều những cuộc hành quân
khác của QLVNCH và các quân đội đồng minh trong thời gian
1966-1967 đã gây thiệt hại rất nặng nề về quân số (cả Việt
cộng và Bắc Việt), tổ chức (mật khu, khu an toàn), và hậu cần
(lương thực, vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng) của phe
Cộng sản. Tổng hành dinh của TUC (COSVN) trong Chiến Khu C phải
dời sang lãnh thổ của Kampuchia. Tinh thần cán bộ, binh sĩ Cộng
sản bị dao động, sa sút rất nghiêm trọng; điều này thể hiện
rất rõ trong các quyển nhật ký của binh sĩ Bắc Việt tịch thu
được trong các cuộc hành quân Việt-Mỹ. Số cán binh Cộng sản
về hồi chánh cũng gia tăng lên rất nhiều.
Về
mặt an ninh lãnh thổ của VNCH, chương trình bình định
(Pacification) trong các vùng nông thôn cũng đang tạo được nhiều
thành quả đáng kể từ giữa năm 1967 với những số thống kê như
sau:
• 67% dân chúng sinh sống trong các vùng do chính phủ VNCH kiểm soát
• 222 quận (trong tổng số 242) được xem là có an ninh
• 8.650 ấp (trong tổng số 12.600) đã được bình định xong
Robert
W. Komer (1922-2000), đứng đầu Chương trình CORDS (Civil Operations
and Revolutionary Development Support) của MACV phụ trách về bình
định (gồm cả Chương trình Phượng Hoàng—Phoenix Program—với mục
tiêu là tiêu diệt hạ tầng cơ sở của Mặt Trận Giải Phóng—VCI =
Viet Cong Infrastructure), đã lạc quan báo cáo về tình hình
Chiến tranh Việt Nam cho Tổng Thống Johnson vào ngày 28-2-1967 như
sau: “…wastefully, expensively, but nonetheless indisputably, we are winning the war in the South.” 57 (xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “…phí phạm, tốn kém nhưng không thể chối cãi được, chúng ta đang thắng cuộc chiến tại Miền Nam”).
Cũng
trong thời gian này, về phương diện chính trị, VNCH đã vượt qua
được thời kỳ hỗn loạn và đã thành công tạo được sự ổn định
với Hiến Pháp 1967 đưa đến việc thành lập của nền Ðệ Nhị
Cộng Hòa vào cuối năm 1967.58
Tất
cả các điều này đã tạo ra cho các cấp lãnh đạo Việt-Mỹ (kể
cả các cấp lãnh đạo về tình báo) một tinh thần lạc quan quá
trớn đưa đến sai lầm trong nhận định và đánh giá về quyết tâm
và khả năng của phe Cộng sản.
Việc
tiến hành cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân đã được lãnh đạo
của Ðảng Lao Ðộng Việt Nam quyết định tại Hà Nội trong phiên
họp của Bộ Chính Trị vào ngày 7-7-1967,59 và ngày khởi sự
cuộc tấn công đã được định là ngày 29-1-1968, tức là ngày
Mùng 1 Tết Mậu Thân, sau đó được dời lại một ngày, là ngày
30-1-1968, tức là Mùng 2 Tết Mậu Thân.60 Như vậy, VNCH và Hoa Kỳ
đã có một khoảng thời gian gần 7 tháng mà vẫn không tiên đoán
được về cuộc tấn công và hoàn toàn bị bất ngờ. Có đúng
thật là hệ thống tình báo của VNCH và Mỹ đã hoàn toàn bất
lực? Sự thật không phải như vậy. Cả VNCH và Hoa Kỳ đều có nắm
được một số tin tình báo về cuộc tấn công này.
Về phía VNCH, Phòng 2 BTTM QLVNCH đã nhận được một số tin tức và tài liệu của phe Cộng sản như sau: 61
•
Tháng 3-1967: một tài liệu tịch thu được của Công Trường 5 (tức
là Sư Ðoàn 5 của Việt Cộng) về một kế hoạch tấn công vào
Sài Gòn
• Ðầu tháng
10-1967: tài liệu học tập về Nghị Quyết 13 của Trung Ương Ðảng
Lao Ðộng Việt Nam, kêu gọi thực hiện một cuộc tổng tấn công để
đạt chiến thắng nhanh chóng
•
Cũng trong tháng 10-1967: một tài liệu của Chiến Trường B-3
(mật danh của phe Cộng sản để chỉ vùng Cao Nguyên Trung Phần
của VNCH), tịch thu được tại Dakto, đề cập đến những chuẩn bị
với quy mô lớn cho Chiến dịch Ðông-Xuân 1968
•
Cuối tháng 11-1967: một tài liệu đề ngày 1-9-1967, với tựa đề
“Sứ mạng mới, công tác mới,” đề cập đến một cuộc tấn công
lớn cùng với một cuộc tổng nổi dậy của dân chúng với tên tắt
là “TCK-TKN” (viết tắt cho cụm từ Tổng Công Kích-Tổng Khởi
Nghĩa)
• Một số tài liệu
lẻ tẻ đề cập đến cách tác chiến trong thành phố, một hình
thức chiến thuật trước kia không bao giờ được đề cập đến trong
các tài liệu tịch thu được
Như
vậy, rõ ràng là tình báo VNCH có nắm được một số tin về ý
đồ của phe Cộng sản cho một cuộc tấn công quy mô lớn vào các
thành phố của VNCH. Vậy tại sao các cấp lãnh đạo của hệ
thống tình báo VNCH đã không khuyến cáo chính phủ để chuẩn bị
đối phó với cuộc tổng tấn công đó khiến cho VNCH hoàn toàn
bị bất ngờ. Có hai lý do chính: 1) Cũng cùng tâm trạng lạc
quan như các cấp lãnh đạo chính trị và quân sự, giới lãnh đạo
tÌnh báo VNCH không tin là phe Cộng sản, trong tình
trạng sa sút tinh thần trầm trọng của cán binh và sự thiệt
hại nặng nề về vật chất (quân số, tiếp liệu, vv) trong các năm
1966-1967, có thể thực hiện nổi một cuộc tổng tấn công như
vậy; nhận định và đánh giá của giới tình báo VNCH là: “Địch có ý đồ nhưng không có khả năng.”
Giới tình báo VNCH tin rằng ngay như nếu họ có báo động thì
các cấp lãnh đạo quân sự cũng sẽ không tin.62 2) Nhận định và
đánh giá vừa kể cũng dựa trên tin tưởng là địch vẫn còn trong
Giai đoạn 1 của Chiến lược mà họ đã theo đuổi từ lâu. Chiến
lược này đã từng được áp dụng rất thành công trong Kháng
chiến chống Pháp (1946-1954), nên lại được áp dụng một lần nữa
trong cuộc chiến tranh này và gồm 3 giai đoạn: 1) Giai đoạn 1:
Phòng ngự, 2) Giai đoạn 2: Chuẩn bị tổng tấn công, và 3) Giai
đoạn 3: Tổng tấn công. Giới tình báo VNCH không tin là phe Cộng sản có khả năng tiến thẳng từ giai đoạn 1 sang ngay Giai đoạn 3.
Về
phía Hoa Kỳ, cách nhận định và đánh giá tin của giới tình
báo có phần hơi khác với phía VNCH. Thời gian 7 tháng (từ ngày
7-7-1967 cho đến 30-1-1968) có thể chia làm 2 giai đoạn:
• Từ
đầu tháng 7 đến cuối tháng 11-1967: giới tình báo Hoa Kỳ, đồng
quan điểm với giới tình báo VNCH, tin rằng phe Cộng sản vẫn
còn trong Giai đoạn 1, nghĩa là không tin vào khả năng hiện thực
của cuộc tổng tấn công
• Từ đầu tháng 12-1967: giới tình báo Hoa Kỳ, dựa trên những tin tức mới, đã
tin là kế hoạch tổng tấn công của phe Cộng sản là có thật
và họ đã có tiến hành việc chuẩn bị đối phó với cuộc tổng
tấn công này
Chúng ta
cố gắng tìm hiểu xem mọi việc đã xảy ra như thế nào về phía
Hoa Kỳ trong giai đoạn từ đầu tháng 12-1967 trở đi.
Trước
hết, trong tháng 12-1967, tình báo Hoa Kỳ đã ghi nhận một số
lượng xe vận tải rất lớn di chuyển dọc theo đường mòn Hồ Chí
Minh: 6.313, so với 3.823 trong tháng 11-1967.63 Cũng trong tháng
này, tình báo Hoa Kỳ, cả CIA lẩn J2-MACV, đều ghi nhận việc sử
dụng nhiều loại vũ khí mới trong các đơn vị quân Cộng sản,
như AK-47, RPG-7 (tức là súng phóng lựu chống xe tăng B-40), súng
phóng hỏa. J2-MACV cũng phát hiện một số sư đoàn chủ lực của
Bắc Việt, là các Sư Ðoàn 2, Sư Ðoàn 325, và Sư Ðoàn 304 (Sư
Ðoàn 304 là sư đoàn đã từng tham gia trận Ðiện Biên Phủ vào năm
1954) tập trung lại chung quanh căn cứ Khe Sanh trong Vùng I. Tất
cả những diễn tiến này khiến cho Tướng Westmoreland, Tư Lệnh
MACV, tin rằng phe Cộng sản sẽ đánh lớn tại Vùng I và cuộc
tấn công này sẽ xảy ra trong tháng 1-1968. Ông cũng nghĩ rằng
phe Cộng sản cũng sẽ tấn công khắp lãnh thổ VNCH nhưng đó chỉ
là nghi binh, để đánh lừa vì mục tiêu chính của cuộc tổng tấn
công này sẽ là tại Vùng I, dọc theo Khu Phi Quân Sự, với trọng
điểm là chung quang căn cứ Khe Sanh, và ông cũng không tin là phe
Cộng sản sẽ tấn công vào Thủ đô Sài Gòn, và vì vậy ông đã
đồng ý giao lại trách nhiệm bảo vệ Sài Gòn từ một đơn vị Hoa
Kỳ cho Liên Ðoàn 5 Biệt Ðộng Quân của QLVNVCH tại một buổi lễ
vào ngày 20-12-1967. Sau đó, ông đích thân bay ra Vùng I để thị
sát và thảo luận với Thiếu Tướng Robert E. Cushman, Jr., Tư Lệnh
Lưc Lượng Thủy Bộ số 3 của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ (3rd
Marine Amphibious Force, 3rd MAF), về việc phòng thủ dọc theo Khu
Phi Quân Sự mà nếu cần, ông sẽ cho tăng cường thêm cả Sư Ðoàn 1
Kỵ Binh Không Vận (1st Cavalry Division, phe Cộng sản thường gọi
là Sư Ðoàn 1 Anh Cả Ðỏ).64 Sự tin tưởng về trọng điểm của
cuộc tổng tấn công sắp đến của phe Cộng sản của Tướng
Westmoreland xuất phát từ suy nghĩ của ông về Chiến tranh Việt
Nam và dựa trên kết quả của các chiến lược mà ông đã áp
dụng: “lùng và diệt địch” (search and destroy), và “hao mòn”
(attrition) từ năm 1965. Ṓng tin rằng Bắc Việt quyết lòng đánh
bại chiến lược tạo ra phòng tuyến bao che (shield strategy) mà
ông đã xây dựng dọc theo biên giới của VNCH và đặc biệt là dọc
theo phía Nam Khu Phi Quân Sự (vĩ tuyến 17) để ngăn chận sự xâm
nhập của quân Bắc Việt vào Miền Nam. Căn cứ quan trọng của lực
lượng Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ tại thung lũng Khe Sanh
đóng một vai trò khá giống căn cứ Ðiện Biên Phủ của Pháp vào
năm 1954.
Ngày
30-12-1967, Ngoại Trưởng Bắc Việt Nguyễn Duy Trinh tuyên bố tại
một buổi tiếp tân của Bộ Ngoại Giao tại Hà Nội là việc ngưng
oanh tạc Bắc Việt sẽ đưa đến thương thuyết giữa Hoa Kỳ
và Bắc Việt. Ðây là một thay đổi quan trọng trong lập trường
của Bắc Việt về thương thuyết vì trước kia họ chỉ nói là
việc Hoa Kỳ ngưng oanh tạc có thể đưa đến việc thương
thuyết. Ðiều này càng củng cố thêm sự tin tưởng của Tướng
Westmoreland là Bắc Việt (qua sắp xếp của Tướng Võ Nguyên Giáp)
đang tìm cách chơi lại ván bài mà họ đã chơi và thắng trong
Hội Nghị Genève năm 1954, với Khe Sanh sẽ đóng vai trò Ðiện Biên
Phủ trong ván bài lần này. Hai hôm sau, ngày 1-1-1968, Ðài Phát
Thanh Hà Nội lập lại lời tuyên bố của Ngoại Trưởng Trinh, cho
thấy đây quả thật đã trở thành lập trường chính thức của Bắc
Việt.
Qua
tháng 1-1968, rõ ràng có những hoạt động của quân Bắc Việt
nhắm vào Khe Sanh. Vào đêm 2-1-1968, TQLC Mỹ đi tuần tra đã bắn
chết một số quân Bắc Việt (trong số này phát hiện có một sĩ
quan Trung Ðoàn Trưởng) đang thám thính gần căn cứ hỏa lực tại
Khe Sanh. Tướng Cushman tin rằng đó là bằng cớ chứng tỏ quân Bắc
Việt sẽ tấn công Khe Sanh.
Vì
định kiến này, các cấp lãnh đạo tình báo và quân sự Hoa Kỳ
đã coi nhẹ và bỏ qua rất nhiều tin tức liên quan đến các hoạt
động quân sự của phe Cộng sản nhằm chuẩn bị cho cuộc Tổng Tấn
Công Tết Mậu Thân trong tháng 1-1968 như các vụ sau đây: 65
• Ngày
3-1-1968, J2-MACV đã có báo cáo về việc khám phá vụ chôn dấu
vũ khí của Việt Cộng trong một nghĩa địa trong vùng ngoại ô
Sài Gòn.
• Ngày 4-1-1968,
QLVNCH khám phá một hầm chôn dấu vũ khí quan trọng tại Ðịnh
Tường (Vùng IV), trong số này có cả 55 quả đạn bích kích pháo
55mm là loại vũ khí chưa từng được VC sử dụng trong Vùng IV;
sau đó một cán bộ VC chỉ huy một đại đội vận tải bị bắt đã
khai báo và hướng dẫn QLVNCH tìm thêm được 41 địa điểm chôn dấu
vũ khí nữa trong vùng.
•
Cũng trong ngày 4-1-1968, J2-MACV đã có báo cáo về việc một
toán đặc công VC toan xâm nhập vào khu vực tổng hành dinh của
MCV tại Tân Sơn Nhất bằng cách xin công việc làm tại sân bay.
•
Ngày 5-1-1968, J2-MACV cũng có báo cáo về một tài liệu tịch
thu được tại Pleiku mang tựa đề “Lệnh Tác Chiến Khẩn Cấp Số
1”; ngoài kế hoạch tấn công Pleiku, tài liệu còn bao gồm cả
chỉ thị cho cán bộ trong việc kêu gọi dân chúng nổi dậy.
•
Ngày 9-1-1968, tình báo Mỹ cũng tịch thu được một tài liệu
trình bày việc tổ chức lại hệ thống chỉ huy của VC.
Giới
tình báo Mỹ chỉ thật sự quan tâm khi được giới tình báo VNCH
cho biết họ thật sự rất lo lắng về tin VC đã có kế hoạch
khủng bố lớn nhắm vào người Mỹ (cả dân sự lẩn quân sự) sinh
sống và làm việc tại Sài Gòn.66
Cho
đến gần cuối tháng 1-1968, Tướng Westmoreland vẫn còn giữ nguyên
định kiến của ông về ý đồ của phe Cộng Sản. Trong báo cáo
đề ngày 22-1-1968 gửi cho Ðô Ðốc Ulysses S. Grant Sharp, Jr. (Tổng
Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Thái BÌnh Dương, CINCPAC =
Commander-In-Chief, Pacific, cấp chỉ huy trực tiếp của Tướng
Westmoreland) và Ðại Tướng Earle G. Wheeler (Tham Mưu Trưởng Liên
Quân Hoa Kỳ = Chairman of the Joint Chiefs of Staff), Tướng
Westmoreland báo cáo như sau: “I believe that the enemy will
attempt a country-wide show of strength just prior to Tet, with Khe Sanh
being the main event. In II Corps, he will probably attack Pleiku and
Kontum cities, and I expect attacks on the Special Forces camps at Da
Seang, Duc Co, and Dak To. In III and IV Corps, province towns are
likely targets for renewed attacks by fire. Terrorism will probably
increase in and around Saigon.” 67 (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Tôi
tin rằng địch quân sẽ cố gắng thực hiện một cuộc biểu dương
lực lượng trên toàn quốc trước Tết, với Khe Sanh là biến cố
chánh. Tại Vùng II, có thể địch quân sẽ tấn công các thành
phố Pleiku và Kontum, và tôi cũng nghĩ là họ sẽ tấn công các
trại Lực Lượng Ðặc Biệt tại Dak Seang, Ðức Cơ và Ðắc Tô. Tại
Vùng III và IV, các tỉnh lỵ có thể lại là mục tiêu cho các
cuộc pháo kích. Hoạt động khủng bố có thể sẽ gia tăng tại
Sài Gòn và các vùng phụ cận.”)
Trong
các ngày 23-26 tháng 1-1968, J2-MACV liên tục nhận được tin về
các hoạt động khủng bố của địch nhắm vào thành phố của VNCH,
đặc biệt là thủ đô Sài Gòn. Sáng ngày 27-1-1968, Tướng
Davidson, J2-MACV, báo cáo tình hình cho Tướng Westmoreland, tiên
đoán VC sẽ có tấn công lớn trên toàn quốc, và ông đặc biệt nêu
tên 2 thành phố Pleiku và Kontum.68 Sáng sớm ngày 30-1-1968, tức
Mùng Một Tết Mậu Thân, VC tấn công cùng một lúc 6 thị trấn
tại các tỉnh Miền Trung. Ngay buổi sáng hôm đó, lúc 7 giờ,
Tướng Davidson lập tức báo cáo cho Tướng Westmoreland về các
cuộc tấn công này và tiên đoán VC sẽ tái diễn các cuộc tấn
công này trên tất cả các vùng còn lại trên khắp lãnh thổ VNCH
vào tối hôm đó. Tướng Westmoreland hoàn toàn đồng ý và lập
tức ra lệnh báo động và thông báo cho tư lệnh các đơn vị quân
Mỹ về khả năng địch sẽ tấn công lớn vào đêm đó.69
Kết
luận: Về phương diện tình báo, đối với cả VNCH và Hoa Kỳ,
việc không tiên đoán được cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân của
phe Cộng Sản, không thể chối cãi được, là một thất bại hết
sức nghiêm trọng.
Về
phía VNCH, rõ ràng là các cơ quan tình báo đã có nắm được
một số tin tức khá rõ ràng liên quan đến kế hoạch của cuộc
Tổng Tấn Công này nhưng việc phân tích, nhận định, và đánh giá
tin của các cấp chỉ huy tình báo đã không chính xác, chủ yếu
dựa vào sự lạc quan, tin tưởng là địch tuy có ý đồ nhưng
không có khả năng thực hiện một cuộc tấn công với quy mô trên
cả nước như thế. Nhờ thất bại này, giới tình báo VNCH đã học
được một bài học lớn về quyết tâm của địch và vì vậy đã
tiên đoán được rất chính xác đợt tấn công lần thứ hai vào Sài
Gòn của VC vào tháng 5-1968.
Về
phía Hoa Kỳ, Hội Ðồng Cố Vấn Tình Báo Hải Ngoại của Tổng
Thống (President’s Foreign Intelligence Advisory Board, viết tắt là
PFIAB) đã thiết lập một ủy ban cấp cao để điều tra về công tác
tình báo trong thời gian trước cuộc tấn công. Báo cáo của ủy
ban, gồm 9 trang, với tựa đề là “Intelligence warning of the Tet
Offensive in South Vietnam,” được hoàn thành trong tháng 4-1968.
Trong phần kết quả điều tra (General Findings), ủy ban đưa ra một
số kết luận như sau: “Although warning had thus been provided,
the intensity, coordination, and timing of the enemy attack were not
fully anticipated. … A second major unexpected element was the number of
simultaneous attacks mounted. … Underlying these specific problems was a
more basic one: most commanders and intelligence officers, at all
levels, did not visualize the enemy as capable of accomplishing his
stated goals as they appeared in propaganda and in captured documents.
Prevailing estimates of attrition, infiltration, and local recruitment,
reports of low morale, and a long series of defeats had degraded our
image of the enemy. The general picture presented was an enemy unable to
conduct an offensive of such scope and intensity.” 70 (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Mặc
dù đã có những báo động, cường độ, phối hợp, và thời điểm
của cuộc tấn công của địch đã không hoàn toàn được dự đoán
trước. … Một yếu tố quan trọng nữa đã không được đoán trước
là con số những cuộc tấn công sẽ được thực hiện cùng một
lúc. … Bên dưới những vấn đề cụ thể đó là một vấn đề căn
bản hơn: phần lớn các cấp chỉ huy và các sĩ quan tình báo, ở
tất cả mọi cấp, đã không hình dung ra được là địch quân có
khả năng hoàn thành được những mục tiêu đề ra mà chúng đã
tuyên truyền hay trong các tài liệu tịch thu được. Những ước
lượng về địch quân đang thịnh hành về các mặt hao mòn, xâm
nhập, và tuyển mộ tại địa phương, các báo cáo về việc xuống
tinh thần, và một chuỗi dài những thất trận của họ đã làm cho
chúng ta xem thường địch quân. Hình ảnh tổng quát được trình
bày cho chúng ta là một địch quân không có khả năng thực hiện
một cuộc tấn công với tầm vóc và cường độ như thế.”).
Tướng Davidson, Trưởng J2-MACV trong thời gian Trận Mậu Thân, cho
biết ông đồng ý với kết quả điều tra của ủy ban này, nhưng
quan điểm của ông có khác biệt về mức độ. Ông cho rằng yếu tố
quan trọng nhất trong bất ngờ về chiến thuật không phải là
thời điểm của cuộc tấn công, mà là ở điểm địch quân đã tấn
công vào quá nhiều thành phố và vào cùng một thời điểm.71
Về
phía phe Cộng sản, họ đã thành công trong việc tạo được bất
ngờ nhờ họ đã rất tích cực trong các công tác bảo mật và
phản gián (đánh lừa đối phương). Phe Cộng sản hiểu rất rõ là
để có thể thành công trong kế hoạch tổng tấn công này họ phải
giữ bí mật tuyệt đối về ngày giờ tấn công và địa điểm tấn
công. Và họ đã làm được tốt công tác này trong cả hai lãnh
vực bảo mật và đánh lừa đối phương. Trong lãnh vực bảo mật,
vì tất cả các cấp chỉ huy quân sự của VC và quân Bắc Việt
đều là đảng viên cộng sản, việc bảo mật không phải là một
vấn đề vì họ đã quá quen thuộc với việc này. Mặc dù vậy,
chỉ có cán bộ từ cấp trung đoàn trở lên mới được học tập
đầy đủ về kế hoạch này. Vì thế, nhân viên Việt-Mỹ của Chiến
địch Phượng Hoàng ở khắp lãnh thổ của VNCH, nhưng chủ yếu
nhắm vào hạ tầng cơ sở của VC, đã không phát hiện được kế
hoạch này. Trong lãnh vực đánh lừa đối phương, phe Cộng sản đã
thực hiện một số công tác quan trọng: 1) dùng chiêu bài hưu
chiến trong thời gian Tết; 2) tấn công một số tiền đồn và căn
cứ Việt-Mỹ ở biên giới, và, đặc biệt đe dọa căn cứ Khe Sanh
của TQLC Mỹ; và, 3) dùng đòn ngoại giao của Ngoại Trưởng
Nguyễn Duy Trinh để cho chính phủ Mỹ nghĩ và tin rằng họ đã
không còn chịu đựng nổi việc oanh tạc liên tục của Hoa Kỳ và
đã muốn thương thuyết.
Trận Ban Mê Thuột (Tháng 3-1975)
Trận
Ban Mê Thuột diễn ra chỉ trong khoảng 1 tuần lễ ngắn ngủi (từ
ngày 10-3 đến ngày 18-3-1975) nhưng có tầm vóc hết sức quan
trọng trong cuộc chiến kéo dài gần 20 năm. Nó mở màn cho Chiến
dịch Tây Nguyên của phe Cộng sản trực tiếp đưa đến quyết định
tai hại của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu triệt thoái khỏi Vùng
II và gián tiếp tạo ra sự sụp đổ của VNCH vào cuối tháng
4-1975.
Sau khi
mất tỉnh Phước Long (vào đầu tháng 1-1975, mà chính quyền VNCH
quyết định bỏ luôn, không tìm cách đánh chiếm lại như đối với
tỉnh Quảng Trị trong Mùa Hè 1972), các nhà lãnh đạo quân sự
của VNCH đều nghĩ và tin rằng phe Cộng sản sẽ tấn công mạnh ở
Vùng II, tại Cao Nguyên Trung Phần.
Thật
ra, ngay từ trước khi xảy ra trận Phước Long, vào 2 ngày 9-10
tháng 12-1974, trong cuộc họp của Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia,
diễn ra tại Dinh Ðộc Lập dưới sự chủ tọa của Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu, để thảo luận về kế hoạch phòng thủ cho năm
1975, Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH đã tiên
đoán là Cộng sản sẽ không tiến hành một cuộc tổng tấn công
như họ đã làm trong mùa Hè năm 1972, mà chỉ thực hiện những
cuộc tấn công có quy mô lớn, khởi sự tại Vùng II và thời điểm
sẽ là trong tháng 3-1975. Tại Vùng II, ông dự đoán là họ sẽ
tập trung các cố gắng ở phía Bắc của vùng chiến thuật này,
cụ thể là Kontum và phía Bắc của Bình Ðịnh.72 Chính vì vậy,
dự kiến Cộng quân sẽ cắt đứt các quốc lộ chính từ duyên hải
lên cao nguyên, từ cuối tháng 1-1975, BTTM đã cho chuyển lên Pleiku
và Kontum một số lượng rất lớn về lương thực và đạn dược đủ
để cho lực lượng phòng thủ Pleiku và Kontum (ước lượng khoảng
20.000 quân) sử dụng trong 60 ngày mà không cần tiếp tế.73
Bản
đồ dưới đây cho thấy rõ sự tập trung phòng thủ dày đặc của
QLVNCH ở phía Bắc của Vùng II (Pleiku và Kontum) vào đầu tháng
3-1975 như sau:
Bản Ðồ Bố Trí CÁc Lực Lựợng Phòng Thủ Tại Vùng II
Vào Ðầu Tháng 3-1975 (Trích từ trang 149 của sách Black April)
• 3
Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân (BÐQ) bảo vệ Kontum và 1 Liên Ðoàn BÐQ
bảo vệ Quốc Lộ 14 (nối liền Kontum và Pleiku; chạy thẳng xuống
phía Nam, đến Ban Mê Thuột)
• 2 Trung Ðoàn 44 và 45 của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh bảo vệ Pleiku
•
4 Trung Ðoàn 40, 41, 42 và 47 của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh bảo vệ
phía Bắc Bình Ðịnh và các đèo Mang Giang và An Khê trên Quốc
Lộ 19 (nối liền Qui Nhơn–tỉnh lỵ của Bình Ðịnhh–với Kontum)
Ðể
bảo vệ Ban Mê Thuột chỉ có Liên Ðoàn 21 BÐQ đóng ở Buôn Hồ
(một thị trấn nằm cách Ban Mê Thuột khoảng 40 km về hướng Ðông
Bắc), các đơn vị cơ hữu của tỉnh Darlac, và Trung Ðoàn 53 của
Sư Ðoàn 23 Bộ Binh. Theo Ðại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng
kiêm Tiểu Khu Trưởng Darlac, trên thực tế, Trung Ðoàn 53, đóng
tại Phi trường Phụng Dực (cách Ban Mê Thuột khoảng 8 km về
hướng Ðông), vào lúc đó chỉ gồm có bộ chỉ huy Trung Ðoàn và 1
Tiểu Ðoàn mà thôi.74
Khi trận tấn công Ban Mê Thuột nổ ra vào ngày 10-3-1975, lực lượng hai bên được bố trí như trong bản đồ sau đây:
Bản Ðồ Trận Ban Mê Thuột (Trích từ trang 157 của sách Black April)
Nhìn
vào bản đồ bên trên, chúng ta thấy rõ là địch quân đã tấn công
vào Ban Mê Thuột từ 5 phía với các lực lượng như sau:
• Từ hướng Tây Bắc: với Trung Ðoàn 148, thuộc Sư Ðoàn 316
• Từ hướng Ðông Bắc: với Trung Ðoàn 95B, thuộc Sư Ðoàn 325
• Từ hướng Ðông Nam: với Trung Ðoàn 149, thuộc Sư Ðoàn 316
• Từ hướng Tây: với Tiểu Ðoàn 4, thuộc Trung Ðoàn 24, Sư Ðoàn F10
• Từ hướng Nam: với Trung Ðoàn 174, thuộc Sư Ðoàn 316
Như
vậy, lực lượng chính tấn công Ban Mê Thuột là Sư Ðoàn 316, với 3
Trung Ðoàn cơ hữu là 148, 149, và 174, tăng cường thêm với 1
trung đoàn của Sư Ðoàn 325 và 1 tiểu đoàn của Sư Ðoàn F10, và,
dĩ nhiên, với các đơn vị pháo binh, chiến xa, và đặc công. Sư
Ðoàn 316 trước đây chỉ hoạt động tại Lào và từ năm 1974 đã
được lệnh quay trở về Bắc Việt. Sư hiện diện của sư đoàn này
tại Miền Nam sẽ là một bất ngờ cho giới tình báo VNCH.
Sau đây
chúng ta cố gắng tìm hiểu sự sắp xếp và chuẩn bị cho cuộc
tấn công của phe Cộng sản và những hoạt động tình báo của hai
bên trước khi cuộc tấn công nổ ra.
Việc
phe Cộng sản quyết định tấn công Ban Mê Thuột thay vì Pleiku một
phần lớn là do họ đã nắm được tin tức về buổi họp của Hội
Ðồng An Ninh Quốc Gia của VNCH vào 2 ngày 9-10 tháng 12-1974.
Toàn bộ kế hoạch phòng thủ cho năm 1975 của Ðại Tướng Cao Văn
Viên trình bày tại buổi họp đã được một điệp viên thuộc loại “trường kỳ mai phục,” làm việc ngay trong văn phòng của Tướng Viên tại BTTM QLVNCH, báo cáo đầy đủ về Hà Nội.75,76
Trong
khi đó, nội bộ ban tham mưu của Quân Ðoàn II lại không đồng ý
với nhau về mục tiêu tấn công của phe Cộng sản tại Vùng II:
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn II tin rằng họ sẽ
tấn công Pleiku, trong khi đó thì Ðại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng
Phòng 2 (phụ trách về tình báo) của Quân Ðoàn II thì lại tin
là Cộng quân sẽ tấn công Ban Mê Thuột. Việc Tướng Phú không tin
vào nhận định của Ðại Tá Tiếu có thể có một số lý do như
sau: 1) Tướng Phú tin tưởng và dựa vào kế hoạch phòng thủ năm
1975 của BTTM như đã trình bày trên; 2) Sự tin tưởng này của
Tướng Phú được tăng cường thêm sau buổi họp ngày 18-2-1975 tại
Sài Gòn để duyệt lại kế hoạch phòng thủ 1975 này và chính
Tổng Thống Thiệu lưu ý ông việc Cộng quân có thể sẽ đánh
Pleiku; chính vì vậy ông đã một lần nữa, tại buổi họp ngày
hôm sau, 19-2-1975, tại Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn ở Pleiku, bác bỏ
báo cáo của Ðại Tá Tiếu về khả năng tấn công Ban Mê Thuột dựa
trên những tin tình báo mới; và 3) Khi nhận chức Tư Lệnh Quân
Ðoàn II, Tướng Phú không chọn được những sĩ quan thân tín của
mình mà phải chấp nhận những sĩ quan đang phục vụ trong bộ
tham mưu của Quân Ðoàn (trong đó có Ðại Tá Tiếu).
Về
phía Cộng quân, dựa vào kế hoạch phòng thủ năm 1975 của VNCH
mà họ đã nắm được cộng thêm việc bố trí lực lượng phòng thủ
dày đặc của Quân Ðoàn II ở phía Bắc của Vùng II, họ thấy rõ
là Tướng Phú tin rằng họ sẽ tấn công Pleiku. Do đó họ đã tập
trung cố gắng làm mọi động tác giả để đánh lừa Tướng Phú,
làm cho ông tin rằng ông đã tính toán đúng là họ sẽ đánh
Pleiku chứ không phải Ban Mê Thuột.
Nhìn
chung, phe Cộng sản đã lại áp dụng phương thức mà họ đã từng
sử dụng trong lúc chuẩn bị trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân
để đạt được mục tiêu này. Phương thức đó gồm 2 phần: 1) Bảo
mật tối đa về mục tiêu thật của trận tấn công là Ban Mê Thuột;
và, 2) Thực hiện môt số động tác giả để đánh lừa đối phương
khiến cho đối phương tin là mục tiêu thật của trận tấn công sẽ
là Pleiku-Kontum.
Bảo mật:
Về
phương diện bảo mật, rút kinh nghiệm từ trận Mậu Thân, mục tiêu
Ban Mê Thuột của trận tấn công được giữ kín tối đa. Các tư
lệnh tại mặt trận chỉ được biết vào cuối tháng 1-1975, và tư
lệnh các đơn vị sẽ tham gia tấn công chỉ được thông báo từ đầu
tháng 2-1975. Hà Nội cũng quyết định giữ nguyên các đơn vị
đang có mặt ở phía Bắc của Vùng II (Pleiku-Kontum) là các Sư
Ðoàn 2, Sư Ðoàn 3, Sư Ðoàn F10 và 2 Trung Ðoàn độc lập 25 và
95A, và ra lệnh cho các đơn vị đó tăng cường các hoạt động đe
dọa vùng này. Trong khi đó, các đơn vị sẽ tham gia tấn công Ban
Mê Thuột đều là các đơn vị trừ bị đang đóng quân tại Lào hay
tại Bắc Việt được bí mật di chuyển vào các vị trí chung quanh
Ban Mê Thuột để chuẩn bị tấn công. Sư Ðoàn 316, đơn vị chủ lực
của trận tấn công vào Ban Mê Thuột, trước kia chỉ hoạt động
tại Lào, sau đó được điều dộng trở về Miền Bắc, đã nhận
được lệnh di chuyển vào Nam vào ngày 15-1-1975, nhưng để lại bộ
phận truyền tin tại Miền Bắc để tiếp tục gửi đi các báo cáo
nhằm đánh lừa các đơn vị SIGINT của QLVNCH.77
Ðánh lừa:
Ðầu
tháng 2-1975, một đơn vị của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh QLVNCH bắt được 1
binh sĩ Bắc Việt tại một địa điểm ở phía Tây tỉnh Bình Ðịnh
gần đèo An Khê. Qua thẩm vấn được biết binh sĩ này đã tháp
tùng viên tư lệnh của Sư Ðoàn 3 Bắc Việt đi thám sát đèo An
Khê. Trong mình binh sĩ này có giữ một bản đồ ghi rõ các địa
điểm mà Sư Ðoàn 3 dự định sẽ đóng chốt để cắt đứt Quốc Lộ
19 là con đường huyết mạch nối liền Qui Nhơn (tỉnh lỵ của tỉnh
Bình Ðịnh) với Pleiku. Cùng lúc đó, Phòng 2 của Quân Ðoàn II
cũng bắt được tin Sư Ðoàn 968 Bắc Việt đang đóng tại Lào đã di
chuyển sang lãnh thổ VNCH. Tướng Phú tin rằng Cộng quân đang
chuẩn bị tấn công Pleiku, và ông đã ra lệnh cho Trung Ðoàn 47
của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh đến trấn giữ đèo An Khê.78 Lý do Trung
Ðoàn 47 được giao cho nhiệm vụ này vì vị sĩ quan Trung Ðoàn
Trưởng, Trung Tá Lê Cầu, là người rất quen thuộc địa hình vùng
đèo An Khê vì ông đã từng chiến đấu tại đây trong trận Tổng
Tấn Công Mùa Hè 1972. Trong suốt tháng 2-1975, các đơn vị Cộng
quân hiện diện trong vùng liên tục pháo kích Kontum và Pleiku
cũng như đánh phá các chốt bảo vệ đèo An Khê trên Quốc Lộ 19
của Trung Ðoàn 47.79 Các đơn vi này do 2 Sư Ðoàn F10 và 320 để
lại để thực hiện kế hoạch nghi binh, còn toàn bộ 2 sư đoàn
này đã di chuyển xuống phía Nam để chuẩn bị tấn công Ban Mê
Thuột. Tất cả những hoạt động này của địch làm cho Tướng Phú
càng thêm tin là Pleiku sẽ là mục tiêu chính của cuộc tấn công
sắp tới của Cộng quân.
Giữa
tháng 2-1975, trong một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Nguyễn
Tú của báo Chính Luận, Tướng Phú đã nói ra tất cả những gì
ông suy nghĩ và phân tích về cuộc tấn công sắp tới của địch.
Ṓng tin rằng địch sẽ sử dụng một lực lượng cấp sư đoàn để
cắt đứt Quốc Lộ 19 trước khi tấn công Pleiku.80
Ngày
18-2-1975, Tướng Phú về Sài Gòn dự phiên họp với các tướng tư
lệnh quân đoàn do Tổng Thống Thiệu triệu tập để duyệt lại kế
hoạch phòng thủ cho năm 1975. Tại phiên họp này, chính Tổng
Thống Thiệu tái xác định khả năng địch có thể tấn công Pleiku
ở Vùng II. Ðiều này càng làm cho Tướng Phú thêm tin tưởng là
ông đã nghĩ đúng về mục tiêu tấn công sắp tới của địch
quân.81 Do đó, ông đã một lần nữa bác bỏ nhận định của Ðại
Tá Tiếu về khả năng địch sẽ tấn công Ban Mê Thuột tại phiên
họp của ban tham mưu Quân Ðoàn II ở Pleiku vào ngày hôm sau,
19-2-1975.
Ðầu
tháng 3-1975, trước một số tin tình báo về các hoạt động của
địch chung quanh Ban Mê Thuột làm Tướng Phú có phần nao núng.
Ngày 4-3-1975, ông ra lệnh cho Trung Ðoàn 45 của Sư Ðoàn 23 Bộ
Binh di chuyển về Ban Mê Thuột. Việc di chuyển này sắp bắt đầu
thì vào lúc 2 giờ trưa cùng ngày, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II tại
Pleiku bị địch quân pháo kích, Tướng Phú ra lệnh hủy bỏ việc
chuyển quân này.82 Cùng ngày địch quân tấn công dữ dội vào các
đơn vị của Trung Ðoàn 47 và cắt đứt Quốc Lộ 19 tại hai nơi.
Tướng Phú tin chắc là địch quân đã bắt đầu chiến dịch tấn
công vào Pleiku.
Việc
chuyển quân của Sư Ðoàn 316 từ Bắc vào Nam cũng như của Sư Ðoàn
968 từ Lào sang Việt Nam, mặc dù được ngụy trang rất kỹ như đã
trình bày bên trên, sau cùng vẫn bị SIGINT của QLVNCH phát
hiện. Sau khi phân tích tín hiệu, và đánh giá, Phòng 7 BTTM
QLVNCH nhận định là Cộng quân sẽ tấn công Ban Mê Thuột. Ngày
7-3-1975, 3 ngày trước khi trận Ban Mê Thuột nổ ra, Chuẩn Tướng
Phạm Hữu Nhơn, Trưởng Phòng 7, BTTM QLVNCH, cùng với Tom Glenn là
Trưởng đơn vị của Cơ Quan An Ninh Quốc Gia (National Security
Agency – NSA) của Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã bay lên Pleiku để đích
thân báo cho Thiếu Tướng Phú về nhận định của Phòng 7 là Cộng
quân sẽ tấn công Ban Mê Thuột (cuộc họp này có mặt cả Ðại Tá
Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 của Quân Ðoàn 2) nhưng Tướng Phú
vẫn không tin.83 Ngay cả vào lúc 10 giờ sáng ngày 9-3-1975, sau
khi Thuần Mẫn, thuộc tỉnh Phú Bổn, đã mất, và Ðức Lập, thuộc
tỉnh Quảng Ðức cũng đã bị chiếm, ông bay xuống Ban Mê Thuột
để họp với các đơn vị trưởng tại đây để duyệt xét tình hình,
Tướng Phú vẫn còn tiếp tục nghĩ và tin là tất cả chỉ là
nghi binh. Ông vẫn chờ cuộc tấn công vào Pleiku, một cuộc tấn
công chẳng bao giờ xảy ra. Sáng sớm ngày hôm sau, 10-3-1975, trận
tấn công vào Ban Mê Thuột nổ ra và chỉ trong 2 ngày toàn bộ
thị xã này đã lọt vào tay Cộng quân.
Kết
luận: QLVNCH thua trận Ban Mê Thuột không phải vì tình báo yếu
kém mà rõ ràng là do Tướng Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn II bị định
kiến quá nặng nề, Tuy nhiên, nghĩ cho cùng, với trách nhiệm
phải bảo vệ một lãnh thổ quá rộng lớn như thế (gồm tất cả
12 tỉnh, 7 tỉnh cao nguyên là Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Darlac,
Quảng Ðức, Lâm Ðồng, Tuyên Ðức và 5 tỉnh duyên hải là Bình
Ðịnh, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận), thì Quân
Ðoàn II, chỉ với 2 sư đoàn bộ binh (22 và 23) cùng một số liên
đoàn BÐQ, cũng khó mà đương đầu nổi với một lực lương địch
quân đông gấp 3,4 lần với các Sư Ðoàn 2, 3, F10, 968, 316, 320, và
325, và 1 số trung đoàn độc lập. Một bằng chứng rõ ràng là
việc phản công tái chiếm Ban Mê Thuột đã không thể thực hiện
được. Và đó là một trong những lý do đưa đến quyết định triệt
thoái Quân Ðoàn II rất tai hại của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
tại phiên họp định mệnh ngày 14-3-1975 tại Cam Ranh.
Thay Lời Kết
Không
thể phủ nhận được vai trò hết sức quan trọng của tình báo
trong Chiến Tranh Việt Nam, cũng như trong bất cứ cuộc chiến
tranh nào. Và vì thế, dĩ nhiên, các quân đội của các phe lâm
chiến đều phải tổ chức một hệ thống tình báo thật đầy đủ
và tinh vi để có thể nắm được ý đồ và mục tiêu của đối
phương cũng như che dấu và đánh lừa đối phương về ý đồ, mục
tiêu của mình. Trong Chiến Tranh Việt Nam, VNCH và Ðồng Minh Hoa
Kỳ đã tổ chức được một hệ thống tình báo rất hữu hiệu. Rất
tiếc, trong một số trận đánh quan trọng, các cấp chỉ huy tình
báo và quân sự của VNCH và Hoa Kỳ, vì định kiến quá nặng
nề, đã không tin tưởng vào chính hệ thống tình báo của mình,
và vì thế đã thất bại, không nắm được ý đồ và mục đích của
địch quân.
GHI CHÚ:
1. Phan
Công Tâm, “Testimony of a Senior Officer, South Vietnamese Central
Intelligence Organization,” in Voices from the Second Republic of South
Vietnam (1967-1975) / K.W. Taylor, editor. Ithaca, N.Y.: Cornell
Southeast Asia Program Publications, 2014. (Studies on Southeast Asia
Series; no. 65). Tr. 16.
2. Ðoàn Công Tác Ðặc Biệt Miền Trung, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90o%C3%A0n_C%C3%B4ng_t%C3%A1c_%C4%90%E1%BA%B7c_bi%E1%BB%87t_Mi%E1%BB%81n_Trung
3. Ngành Cảnh Sát Ðặc Biệt VNCH, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://kbchaingoai.wordpress.com/2011/05/26/nganh-c%E1%BA%A3nh-sat-d%E1%BA%B7c-bi%E1%BB%87t-vnch/
4.
Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy, Lược sử Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa. California: Hương Quê, 2011. Tr. 500.
5. Ngành Cảnh Sát Ðặc Biệt VNCH, tài liệu trực tuyến và toàn văn đã dẫn bên trên.
6. Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy, sđd, tr. 628.
7.
Hoàng Ngọc Lung, Intelligence. Washington, D.C.: U.S. Army Center of
Military History, 1982. (Indochina Monographs). Tr. 57.
8. Hoàng Ngọc Lung, sđd, tr. 53. Tác giả ghi như sau: “In
order to control the ranks of the administration, particularly in the
wake of the Huynh Van Trong espionage case in 1971, a new security
organization was established which became known as the Directorate
General for Administrative Security.” (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Ðể
kiểm soát hàng ngũ hành chánh, đặc biệt là sau vụ án gián
điệp Huỳnh Văn Trọng năm 1971, một cơ quan an ninh mới được thành
lập có tên là Tổng Nha An Ninh Hành Chánh”).
9.
Thông tin ghi nhận qua cuộc điện đàm với cựu Thiếu Tá Võ
Thành Ðức, nguyên Chánh Sở Huấn Luyện của Tổng Nha An Ninh Hành
Chánh, vào ngày 8-Sept-2016.
10. Central Intelligence Office, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://en.wikipedia.org/wiki/Central_Intelligence_Office
11. Phan Công Tâm, sđd, tr. 16.
12. Phan Công Tâm, sđd, tr. 17.
13. Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy, sđd, tr. 254.
14. Hoàng Ngọc Lung, sđd, tr. 46. Sơ đồ tổ chức của CIO ở tr. 46 được chuyển ngữ sang tiếng Việt.
15. Phan Công Tâm, sđd, tr. 20.
16. Phủ
Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo Việt Nam Cộng Hòa, tài liệu trực
tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://vnchtoday.blogspot.ca/2016/01/phu-ac-uy-trung-uong-tinh-bao-viet-nam.html
17. Hoàng Ngọc Lung, sđd, tr. 47.
18. Hoàng Ngọc Lung, sđd, tr. 48. Tác giả ghi rõ như sau: “… the CIO effectively turned into the intelligence agency of the President’s Office, …” Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “… PÐU thật sự trở thành cơ quan tình báo của Phủ TỔng Thống,…”.
19. Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy, sđd, tr. 522.
20. Hoàng Ngọc Lung, sđd, tr. 65. Sơ đồ tổ chức của Phòng 2 BTTM ở tr. 65 được chuyển ngữ sang tiếng Việt.
21. Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy, sđd, tr. 521.
22. Vài
nét đại cương tiểu sử Ðơn Vị 101 với phương châm sống để bụng
chết mang theo, trong Ðặc san Hoa Tình Thương: tiếng nói của Ðơn
Vị 101 / Unit 101 (1999-2000), tr. 3-5.
23. Bộ
Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tài liệu trực tuyến,
có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://tongthammuu.blogspot.ca/
24. Đơn
Vị 101: Thề chết cho quê hương – Anh vẫn sống, tài liệu trực tuyến,
có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.viendongdaily.com/don-vi-101-the-chet-cho-que-huong-anh-van-song-jsJOKaZw.html
25. Hoàng Ngọc Lung, sđd, tr. 69.
26.
Hoàng Ngọc Lung, sđd, tr. 58-60. Sơ đồ tổ chức của Phòng 7,
BTTM, ở tr. 58 được chuyển ngữ và điều chỉnh sang tiếng Việt.
27.
Lâm Vĩnh Thế, Tài liệu mật của CIA về Việt Nam Cộng Hòa,
trong Bạch hóa tài liệu mật của Hoa Kỳ về Việt Nam Cộng Hòa
(Hamilton, Ont.: Hoài Việt, 2008), tr. 252-277.
28. Phoenix Program, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://en.wikipedia.org/wiki/Phoenix_Program
29. Chiến dịch Phụng Hoàng, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_d%E1%BB%8Bch_Ph%E1%BB%A5ng_Ho%C3%A0ng
30.
Cosmas, Graham A., United States Army in Vietnam: MACV, the Joint
Command in the years of escalation, 1962-1967. Washington, D.C.: U.S.
Army Center of Military History, 2006, tr. 48.
31. Cosmas, Graham A., sđd, tr. 128.
32. Cosmas, Graham A., sđd, tr. 285.
33.
McChristian, Joseph A., The Role of military intelligence, 1965-1967.
Washington, D.C.: Dept. of the Army, 1994. (Vietnam studies). Tr. 15. Sơ
đồ tổ chức của J2-MACV ở tr. 15 được chuyển ngữ sang tiếng
Việt.
34. McChristian, Joseph A., sđd, tr. 19.
35.
Thông tin nhận được từ điện thư ngày 25-9-2016 của Ðại Tá Trần
Ngọc Thống, và điện đàm ngày 27-9-2016 với Thiếu Tá Hồ Ðắc
Huân. Hai vị là đồng tác giả của sách “Lược sử Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa.”
36. McChristian, Joseph A., sđd, tr. 26.
37. Những
Người Trở Về Với Đại Gia Đình Dân Tộc, tài liệu trực tuyến, có
thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://batkhuat.net/tl-nn-trove-daigiadinh-dantoc.htm
38. McChristian, Joseph A., sđd, tr. 34-40.
39. McChristian, Joseph A., sđd, tr. 40-44.
40. McChristian, Joseph A., sđd, tr. 48. Sơ đồ tổ chức của CICV ở tr. 48 được chuyển ngữ sang tiếng Việt.
41. Tổng
cục Tình báo Quân đội Nhân dân Việt Nam, tài liệu trực tuyến,
có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.wikiwand.com/vi/T%E1%BB%95ng_c%E1%BB%A5c_T%C3%ACnh_b%C3%A1o_Qu%C3%A2n_%C4%91%E1%BB%99i_Nh%C3%A2n_d%C3%A2n_Vi%E1%BB%87t_Nam
42. Chuyện
về Tổng Cục 2 – Kỳ IV: Cục trưởng Cục Tình báo đầu tiên, tài
liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau
đây: http://soha.vn/quan-su/chuyen-ve-tong-cuc-2-ky-iv-cuc-truong-cuc-tinh-bao-dau-tien-20151020165047274.htm
43. Hoàng Ngọc Lung, sđd, tr. 196-197.
44.
Hoàng Ngọc Lung, sđd, tr. 200. Sơ đồ tổ chức hệ thống tình báo
cua phe Cộng sản ở tr. 200 được chuyển ngữ sang tiếng Việt.
45. Hoàng Ngọc Lung, sđd, tr. 201-202.
46.
Conboy, Kenneth và Dale Andradé, Spies and commandos: how America
lost the secret war in North Vietnam. Lawrence, Kansas: University Press
of Kansas, 2000. Tr. 1-15.
47.
Schultz, Richard H., The secret war against Hanoi: the untold story of
spies, saboteurs, and covert warriors in North Vietnam. New York :
HarperCollins, 2000. Tr. 87.
48. Tư
liệu về hoạt động của các toán biệt kích quân đội Sài Gòn
được đưa ra Miền Bắc, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn
văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://phamthang-hue.weebly.com/–2182012/t-liu-v-hot-ng-ca-cc-ton-bit-kch-qun-i-si-gn-c-a-ra-min-bc
49. Conboy, Kenneth và Dale Andradé, sđd, tr. 36-45.
50.
Lữ Triệu Khanh, Lịch sử Nha Kỹ Thuật, Bộ Tổng Tham Mưu, QLVNCH,
tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ
Internet sau đây: http://lichsunhakythuat.blogspot.ca/
51. Kenneth và Dale Andradé, sđd, tr. 83.
52.
Lâm Vĩnh Thế, Tài liệu mật của C.I.A. về Ðại Tá Phạm Ngọc
Thảo, trong Bạch hóa tài liệu mật của Hoa Kỳ về Việt Nam Cộng
Hòa (Hamilton, Ont.: Hoài Việt, 2008), tr. 12-26.
53. Vũ Ngọc Nhạ, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9_Ng%E1%BB%8Dc_Nh%E1%BA%A1
54. Phạm Xuân Ần, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_Xu%C3%A2n_%E1%BA%A8n
55. Vietnam War: allied troop levels 1960-73, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.americanwarlibrary.com/vietnam/vwatl.htm
56.
Wirtz, James J., The Tet Offensive: intelligence failure in war.
Ithaca, N.Y.: Cornell University Press, 1991. (Cornell studies in
security affairs). Tr. 42.
57. Wirtz, James J., sđd, tr. 44.
58.
Lâm Vĩnh Thế, Việt Nam Cộng Hòa, 1963-1967: những năm xáo trộn.
Hamilton, Ont.: Hoài Việt, 2010. Chương Mười: Tiến đến nền đệ
nhị cộng hòa, tr. 167-205.
59. Wirtz, James J., sđd, tr. 140.
60.
Davidson, Phillip B., Vietnam at war: the history, 1946-1975. London,
U.K.: Sidgwick & Jackson Limited Publishers, 1988. Tr. 474. Trung
Tướng Phillip B. Davidson chính là người đứng đầu J2-MACV (lúc
ông còn mang cấp bậc Thiếu Tướng) trong thời gian trận Tổng Tấn
Công Tết Mậu Thân.
61. Hoàng Ngọc Lung, sđd, tr. 146-148.
62. Hoàng Ngọc Lung, sđd, tr. 150. Nguyên văn Anh ngữ như sau: “However, our military leaders would not have believed such a probability if they had been warned.” Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Tuy nhiên, nếu chúng ta có báo động về khả năng đó, các lãnh tụ quân sự của chúng ta cũng sẽ không tin.”)
63. Wirtz, James J., sđd, tr. 181.
64. Wirtz, James J., sđd, tr. 186.
65. Wirtz, James J., sđd, tr. 191-193.
66. Wirtz, James J., sđd, tr. 183. Tác giả ghi như sau: “ In
a letter written on 19 December, MACV analyst James Meacham described
the reaction of the U.S. Command and ARVN officers to the VC campaign:
“The word is out that the VC are going to make an all out terrorist
effort against Saigon Americans from now on throught Tet. Our ARVN
counterparts at CICV are really concerned – the first time in living
memory that they have been. This is a bad sign because they know the VC
infinitely better than we.” ” Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Trong
một bức thư đề ngày 19 Tháng 12, nhân viên phân tích tình báo
của MACV James Meacham mô tả như sau phản ứng của Bộ Tư Lệnh Mỹ
và các sĩ quan QLVNCH: “Tin cho biết là VC sẽ có cố gắng tấn
công khủng bố rộng lớn đối với người Mỹ ở Sài Gòn từ đây
đến qua Tết. Các đồng nhiệm của chúng ta tại CICV [chú thích
cuả tác giả bài viết: CICV = Combined Intelligence Center, Vietnam,
tức là Trung Tậm Tình Báo Hỗn Hợp Việt Nam] thật sự rất quan
tâm – lần đầu tiên họ quan tâm mà tôi còn nhớ được. Ðây là một
dấu hiệu không tốt bởi vì họ biết rõ VC hơn mình nhiều.”)
67. Wirtz, James J., sđd, tr. 212.
68. Wirtz, James J., sđd, tr. 216.
69. Davidson, Phillip B., sđd, tr. 474.
70. Intelligence
warning of the Tet Offensive in South Vietnam, tài liệu trực tuyến,
có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://www.cia.gov/library/readingroom/docs/DOC_0000097712.pdf . Tr. 3-5.
71. Davidson, Phillip B., sđd, tr. 479.
72. Veith, George J., Black April: the fall of South Vietnam, 1973-1975. New York: Encounter Books, 2012. Tr. 116-117.
73. Veith, George J., sđd, tr. 118.
74.
Nguyễn Trọng Luật, Nhìn lại trận đánh Ban Mê Thuột 1975, tài
liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau
đây: http://googletienlang2014.blogspot.ca/2015/03/ai-ta-nguy-nguyen-trong-luat-nhin-lai.html
75. Veith, George J., sđd, tr. 124-125.
76. Giải
mật về điệp viên H3: người khiến CIA kinh ngạc, tài liệu trực
tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.tienphong.vn/hanh-trang-nguoi-linh/giai-mat-ve-diep-vien-h3-nguoi-khien-cia-kinh-ngac-854914.tpo
77. Veith, George J., sđd, tr. 131.
78. VEith, George J., sđd, tr. 136-137.
79. Chiến dịch Tây Nguyên, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_d%E1%BB%8Bch_T%C3%A2y_Nguy%C3%AAn#Nghi_binh
80. Nguyễn Tú, “Trận đấu trí tại Tây Nguyên,” Chính Luận, số, ra ngày 18-2-1975, tr. 1, 3, 6.
81. Veith, George J., sđd, tr. 143.
82. Nguyễn Trọng Luật, tài liệu trực tuyến đã dẫn.
83. Veith, George J., sđd, tr. 148, 150. (Source: http://www.kieumauthuduc.org/index.php/creativities/studies/74-creative/bien-khao/1143-tinh-bao-trong-chi-n-tranh-vi-t-nam
)